Thứ Năm, 26 tháng 12, 2013

Kinh tế Việt Nam đang ở ngã ba đường

- Nền kinh tế cứ thế đứng giữa ngã ba đường.  Mà về mặt kinh tế, nếu không làm triệt để, không giải quyết được tận gốc thì không thể thoát ra khỏi tình trạng khó khăn, ông Nguyễn Xuân Thành phân tích.

LTS: Trong cuộc trò chuyện với Tuần VN dịp cuối năm, ông Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, nhà nghiên của Viện Rajawali về châu Á thuộc trường Harvard Kennedy đã mổ xẻ các tồn tại của kinh tế vĩ mô năm cũ và bài học cho năm 2014 sắp tới.
Năm 2013 sắp khép lại. Nếu phải mô tả bức tranh kinh tế vĩ mô của năm nay, ông sẽ nói gì?
- Chưa khi nào chúng ta lại trải qua giai đoạn khó khăn kéo dài đến như vậy, kể từ khi Đổi mới cho đến nay. Tính từ khi bắt đầu chịu tác động của khủng hoảng kinh tế đến nay đã tròn 6 năm rồi.
Sự khó khăn đó tác động đến tâm lý mọi tầng lớp, từ nhân dân lao động cho đến các DN, nhà đầu tư nước  ngoài v.v… Ai cũng có cảm giác không yên tâm.
tái cấu trúc, cải cách, kinh tế vĩ mô, Chương trình Giảng dạy kinh tế Fulbright

Một vấn đề khác nữa là trong suốt giai đoạn khó khăn kéo dài này, đã có những khoảnh khắc ngắn ngủi khi chúng ta nhắc  đến sự khởi sắc, phục hồi hay ổn định. Nhưng bao trùm đó luôn luôn là sự lo lắng, chưa hài lòng…
Chính vì thế nhiều người dân đặt kỳ vọng vào chương trình tái cấu trúc kinh tế và cải cách thể chế trong hai năm 2012 và 2013. Bởi những trục trặc hiện nay rất lớn,  ai cũng thấy và biết rằng phần nhiều những yếu kém về cơ cấu nội tại là do những nút thắt về thể chế chưa thông chứ không chỉ do tác động của khủng hoàng toàn cầu.
Cho nên khi Chính phủ đặt ra chương trình  tái cấu trúc và cải cách thì cũng có người hoài nghi nhưng rất nhiều người kỳ vọng. Vì đó là đường đi, nói chính xác hơn là lối thoát ra khỏi tình trạng vô cùng khó khăn hiện nay.
Chí ít, nếu chưa thể tăng trưởng nhanh được ngay thì cũng có thể góp phần đưa nền kinh tế quay trở lại trạng thái bình thường.
Nhưng không ai có thể phủ nhận được quyết tâm rất cao của Chính phủ, Quốc hội khi đưa hàng loạt thủ phạm gây tắc nghẽn nền kinh tế lên bàn nghị sự?
- Trên bàn nghị sự vừa qua đã thảo luận hàng loạt vấn đề lớn liên quan đến tái cấu trúc DNNN, đầu tư công, ngân hàng, sửa đổi Hiến pháp, Luật đất đai v.v…
Nhưng cho đến thời điểm hiện tại là giữa nhiệm kỳ thì việc tái cấu trúc hay cải cách vẫn vấp phải vô số rào cản.
Tức là đã có “chạm” vào vấn đề nhưng chưa giải quyết được nguyên nhân cốt lõi? Và hệ quả sẽ là gì thưa ông?
- Thì chưa làm đến nơi đến chốn, chưa giải quyết tận gốc được các tồn tại.
Nguyên nhân của sự chậm trễ này không phải do các giải pháp thiếu khả thi mà chủ yếu do lực cản từ các nhóm lợi ích. Do đặc thù của thời điểm giữa nhiệm kỳ…
Đây là tình thế “tiến thoái lưỡng nan”! Nền kinh tế cứ thế đứng giữa ngã ba đường.  Mà về mặt kinh tế, nếu không làm triệt để, không giải quyết được tận gốc thì không thể thoát ra khỏi tình trạng khó khăn.
Các chính sách thực hiện từ năm 2008 đến nay đã cho thấy một điều rất rõ ràng đó là, chúng ta lúc thì thắt chặt, lúc thì nới lỏng về chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để đưa nền kinh tế trở lại quỹ đạo bình thường nhưng chưa làm được!
Giờ thì ai cũng biết rõ là phải cải cách thể chế và tái cấu trúc thì mới phục hồi được tăng  trưởng.
Trong khi đó sự bức xúc trong xã hội ngày càng tăng. Tăng trưởng thấp, việc làm ít, thu nhập có tăng nhưng không cải thiện được đời sống. Những mâu thuẩn trong xã hội nảy sinh, nhà đầu tư nản lòng, DN thì co cụm; BĐS vẫn chết đứng, khó khăn của ngân hàng vẫn nằm đấy…
tái cấu trúc, cải cách, kinh tế vĩ mô, Chương trình Giảng dạy kinh tế Fulbright
Ông Nguyễn Xuân Thành (Ảnh: Duy Chiến)
Vậy đâu là điểm sáng của năm 2013?
- Có một hướng đi đang được mọi tầng lớp ủng hộ, kỳ vọng, từ người dân đến các nhà quản lý.  Đó là việc chúng ta đang tiếp tục hội nhập quốc tế sâu và rộng hơn.
Xin giải thích rõ hơn thế này. Trong lúc cải cách và tái cấu trúc tương đối khó khăn, thì con đường để kinh tế phục hồi và con đường nhận được sự ủng hộ lớn đó chính là hội nhập.
Xin ông giải thích rõ hơn?
- Trở về giải đoạn đầu hội nhập, thời kỳ đàm phán gia nhập AFTA, ASEANhay WTO, Hiệp định thương mại song phương, có rất nhiều ý kiến khác nhau,không phải ai cũng đồng tình ủng hộ  hết đâu.
Như nhiều người kể lại, thì chính Thủ tướng Phan Văn Khải đã từng lấy bút ra ký Hiệp định thương mại song phương ở New Zealand nhưng có chỉ đạo “chưa ký vội”! Hay đàm phán WTO cũng vậy.
Nhưng bây giờ ở các cuộc họp hay thảo luận trong các giới quản lý, giới khoahoặc hoặc DN đều ủng hộ tiến trình này rất mạnh mẽ.
Nhìn ra xung quanh, có thể thấy xu hướng là thời gian gần đây, Việt Nam thể hiện sự tích cực, mạnh mẽ nhất trong việc tham gia các vòng đàm phán tự do hóa thương mại  mang tính khu vực và song phương.
Những vòng đàm phán hiện nay như ASEAN + 3, TPP (Hiệp định đối tác xuyênThái Bình Dương), song phương Việt Nam – EU đều thuộc loại “nặng ký” cả.
Và, tất cả các ý kiến đều ủng hộ! Không những thế mà còn đặt vào đó rất nhiều kỳ vọng…
Cụ thể là?
- Những người có quan điểm rằng nền kinh tế VN vẫn vững mạnh, không cần đổi mới thể chế hay cải cách thì ủng hộ xu hướng hội nhập bởi cho rằng, đây là cơ hội để mở rộng thị trường cho DN và hàng hóa VN xuất khẩu. Đồng thời, quảng bá cho hình ảnh VN, như điểm đến thu hút dòng vốn đầu tư. Vậy là không ần cải cách hay đổi mới. Nhờ hội nhập sẽ giúp kinh tế tăng trưởng trở lại.
Ngược lại, những người lâu nay vẫn kiên định lập trường phải tái cấu trúc, phải khai thông các nút thắt thể chế thì cũng xem đây là thời cơ. Bởi, họ cho rằng, những lời kêu gọi, vận động đòi hỏi phải tái cấu trúc lâu nay chưa có kết quả, thì nhân dịp này, tạm ngưng “đụng chạm” câu chuyện đó, để tập trung bàn câu chuyện hội nhập. Hy vọng sẽ nhờ các cam kết quốc tế để quay trở lại biến thành động lực thúc đẩy cải cách, đổi mới ở trong nước. Nói cách khác, khi tiến trình tự nhiên chưa cho phép thì sẽ phải thúc đẩy sau đó bằng con đường hội nhập.
  • Duy Chiến
  • Việt Nam có thực tâm muốn cải cách?

    "Không ai có thể bắt một đất nước có chủ quyền mạnh như Việt Nam phải cải cách được. Vấn đề cuối cùng là thực tâm có muốn cải cách hay không thôi", ông Nguyễn Xuân Thành nêu quan điểm.
    Liệu có thể yên tâm rằng, hội nhập là con đường vòng để tháo gỡ những nút thắt khó khăn hiện nay? So với láng giềng, Việt Nam đang ở đâu?  Tuần Việt Nam giới thiệu phần tiếp theo cuộc trò chuyện với ông Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, nhà nghiên của Viện Rajawali về châu Á thuộc trường Harvard Kennedy.
    Nợ xấu là vấn đề lớn nhất
    Trong bối cảnh hiện nay, ông có cho rằng hội nhập sẽ góp phần cải cách nền kinh tế Việt Nam? Khi gia nhập WTO ta cũng có nhiều hy vọng như vậy song thực tế nhiều cam kết WTO vẫn chưa được thực hiện?
    - Thực ra quan điểm và kỳ vọng đó cũng không hoàn toàn đúng vì chưa có cơ sở. Không ai có thể bắt một đất nước có chủ quyền mạnh như Việt Nam phải cải cách được.
    Vấn đề cuối cùng là thực tâm có muốn cải cách hay không thôi.
    Đương nhiên, cái gì cũng cần có điều kiện và cái giá của nó.
    Có nhiều đặc điểm tương đồng với Việt Nam, nhưng công cuộc cải cách của Trung Quốc đang diễn ra mạnh mẽ hơn. Ông nhìn nhận vấn đề này thế nào?
    - Bản chất của vấn đề này là lợi ích và chi phí từ chính những người làm chính sách. Đó là cán cân để họ lựa chọn.
    Nếu lợi ích của việc thay đổi chính sách thấp hơn chi phí thì người làm chính sách sẽ nghiêng về lợi ích.  Trung Quốc đã cải cách mạnh mẽ bởi họ thấy rõ tầm quan trọng mà cải cách sẽ mang lại. Việt Nam thì nhìn nhận khác, thấy rõ lợi ích của cải cách nhưng chi phí quá lớn nên  e dè!

    Ông Nguyễn Xuân Thành. Ảnh Duy Chiến
    Ông có thể giải thích rõ hơn?
    - Tôi nói thẳng nhé: vấn đề lớn nhất hiện nay là nợ xấu của các ngân hàng. Trước mắt phải xử lý nợ xấu, sau đó về lâu dài phải xử lý vấn đề sở hữu chéo, xây dựng hệ thống giám sát bảo đảm sự hoạt động an toàn của ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
    Làm rốt ráo thì nợ xấu giảm đi, ngân hàng mạnh lên, sẽ tiếp tục cho vay, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhưng Chính phủ đã tuyên bố không bỏ tiền nhà nước ra xử lý thì lấy đâu để giải quyết vấn đề vướng mắc của ngân hàng hiện nay?
    Chúng ta hãy xem nhiều nước xử lý vấn đề này, ví dụ Hoa Kỳ.
    Là đất nước có nền kinh tế thị trường mạnh, sở hữu nhà nước rất thấp nhưng khi hệ thống ngân hàng đổ vỡ, Chính phủ Hoa Kỳ bỏ tiền ra xử lý dù nợ xấu do các ngân hàng tư nhân gây ra. Đấy là bỏ ra chi phí để đạt được lợi ích lâu dài.
    Trong khi đó, ở Việt Nam, Chính phủ không chấp nhận trả mức chi phí đó nên ngân hàng phải tự cứu lấy mình. Ngân hàng giữ lại nợ xấu đó để xử lý dần dần. Làm như vậy thì mất thời gian chứ không thể nhanh được?
    Thứ hai là cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
    Ai cũng biết DNNN hoạt động không hiệu quả. Ở đây có sự mâu thuẫn rất lớn: trong thời kỳ kế hoạch tập trung thì quản lý rất chặt chẽ. Ông giám đốc không có quyền gì cả, chỉ biết nhận vật tư và sản xuất theo số lượng được giao. Sản phẩm làm ra có người đến lấy. Chuyển qua cơ chế thị trường, trao cho ông giám đốc quyền tự chủ thì lẽ ra phải được tự chủ đầu tư, kinh doanh chứ. Nhưng đến khi kinh doanh sai, đầu tư ra ngoài không hiệu quả, rồi để tham những dẫn đến đổ bể thì bảo là "buông lỏng quản lý"?
    Làm sao ông Bộ trưởng có thể giám sát được tất cả hoạt động của một tập đoàn? Ngay cả ông Chủ tịch tập đoàn và ông Tổng giám đốc cũng không thể biết hết các công ty con của mình làm ăn ra sao. Không thể lúc nào cũng giám sát hết được và không thể mọi cái đều duyệt, đều phải đi xin phép được. Lẽ ra DN phải hoạt động theo tín hiệu của thị trường và chịu sự giám sát của thị trường.
    Tôi không chỉ định anh làm dự án này hay dự án kia; không buộc ngân hàng phải cho anh vay. Anh cứ làm như một DN bình thường. Các ngân hàng sẽ thẩm định để cho vay.
    Nhưng ta không làm đựoc điều đó. Về bản chất, nhà nước vẫn muốn dùng DNNN là công cụ của chính sách.
    Tư duy này đến nay vẫn chưa thay đổi được, đúng hơn là chưa muốn thay đổi.
    Ở các nước vẫn có DNNN nhưng họ không dùng DNNN là công cụ điều chỉnh chính sách vĩ mô. Nên khi cần cải cách họ làm rất dễ dàng.
    Nền kinh tế Việt Nam vẫn có tính năng động đặc biệt, không những không đổ vỡ mà còn tiếp tục tăng trưởng dù là chậm! Chính điều đó khiến áp lực thay đổi, áp lực cải cách chưa đủ mạnh.
    Đầu tư công cũng như vậy. Ai cũng biết hai tỉnh nằm cạnh nhau thì không việc gì phải cần hai cái sân bay hoặc hai cảng biển. Đây là lợi ích. Nếu phối hợp lại chúng ta sẽ loại bỏ được nhiều dự án lãng phí, như thế sẽ mang lại lợi ích lớn cho quốc gia vì tiết kiệm được nhiều tiền. Nhưng chi phí mất đi là không có tiền cho các đơn vị thực hiện dự án! Vậy là người ta cứ thế làm.
    Chuyện cải cách thể chế cũng như vậy. Luật đất đai có nhiều bất cập, nói rất nhiều nhưng đưa lên bàn cân thì chi phí vẫn lớn hơn lợi ích cho nên khó thay đổi.
    Nhưng, tôi vẫn muốn nhắc lại, là nền kinh tế Việt Nam vẫn có tính năng động đặc biệt, không những không đổ vỡ mà còn tiếp tục tăng trưởng dù là chậm! Chính điều đó khiến áp lực thay đổi, áp lực cải cách chưa đủ mạnh.
    kinh tế, nợ xấu, ngân hàng, Chính phủ, Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Myanmar
    Ông Nguyễn Xuân Thành: "Những chính sách phát triển kinh tế của Myanmar có rất nhiều trục trặc và đang ở tầm khác xa Việt Nam mà họ đang phải học tập Việt Nam rất nhiều" 
    Myanmar còn phải học Việt Nam nhiều
    Nhìn qua láng giềng gần trong ASEAN, hiện có Myanmar đang được xem là "ngôi sao" cải cách được chú ý. Theo ông họ đã có bước đi như thế nào?
    - Phải thận trọng khi nói về Myanmar. Họ khác với Việt Nam là cải cách chính trị trước. Nhìn vào thấy như vậy nhưng bên trong còn rất nhiều vấn đề.
    Hiện tôi đang làm việc bên Myanmar và tôi đã nghiên cứu quan sát nhiều ở đây.  Myanmar đang phải đối phó với thách thức còn nhiều hơn ở Việt Nam. Sự trì trệ còn nhiều hơn. Myanmar đang như Việt Nam vào thời kỳ bắt đầu đổi mới những năm cuối thập niện 80 và đầu 90.
    Điều khác nhau là khi Việt Nam bắt đầu đổi mới thì chưa có tầng lớp đại gia và nhóm lợi ích. Còn Myanmar chưa đổi mới đã có tầng lớp này khá mạnh.
    Những chính sách phát triển kinh tế của họ có rất nhiều trục trặc và đang ở tầm khác xa Việt Nam mà họ đang phải học tập Việt Nam rất nhiều. Việt Nam đang có quá nhiều khu công nghiệp còn Myanmar đang xoay xở làm thế nào để có được khu chế xuất như Tân Thuận của Việt Nam.
    Việt Nam đã có điện lưới quốc gia còn Myanmar chưa, nông dân còn thắp đèn. Xay lúa còn chạy máy phát điện chạy bằng dầu diesel. Trong sản xuất nông nghiệp, năng suất lúa của nông dân Myanmar chỉ bằng ½ năng suất lúa của nông dân Việt Nam.
    Nếu so sánh thì nên so sánh Việt Nam với Thái Lan và Trung Quốc.
    Trở lại những vấn đề của Việt Nam, ông có dự cảm gì hoặc dự báo tình hình gì ở Việt Nam trong năm 2014?
    - Nếu nhìn về trung hạn thì trong năm 2014 tăng trưởng kinh tế vẫn thấp. Kỳ vọng xuất hiện sự tăng trưởng nhanh chưa có.
    Nhưng về điều tiết vĩ mô sẽ kỳ vọng có một số thay đổi như sự nới lỏng có giới hạn. Chính phủ đã đề nghị Quốc hội nới lỏng trần bội chi, phát hành trái phiếu. Chính sách tiền tệ có sự hỗ trợ một phần việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng...
    Tức cũng là "tinh chỉnh" chính sách vĩ mô trong bối cảnh cần tái cấu trúc một cách mạnh mẽ.
    Xin cảm ơn ông!
    Duy Chiến(thực hiện)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét