Thứ Hai, 29 tháng 2, 2016

Kinh Tế Năm Con Khỉ



Nguyễn-Xuân Nghĩa - Người Việt Ngày 160222
"Kinh Tế Cũng là Chính Trị"

Những chuyện khỉ gió năm Bính Thân


* Xã hội chủ nghĩa tính sai - mà vẫn tái sinh với ông già Bernie! Hý họa của Michael Ramirez trên nhật báo Investor's Business Daily * 


Bỗng dưng nhớ đến… Mậu Thân 68!

Năm đó, một Tổng thống Hoa Kỳ thấy giấc mơ “cải tạo xã hội” của ông tan ra mây khói và cuộc chiến thừa hưởng từ vị tiền nhiệm lại chuyển từ bại thành liệt khiến quần chúng phẫn nộ mở ra làn sóng mị dân, dưới tên gọi mỹ miều là đại chúng, populist, làm rung chuyển Đại hội đảng.

Tổng thống đó là Lyndon B. Johnson. Cuộc chiến đó là Việt Nam. Sự phẫn nộ của quần chúng thổi lên nhân vật phản chiến Eugene McCarthy, làm đảo lộn nghị trình tranh cử của đảng Dân Chủ vào tới sự hỗn loạn trong Đại hội đảng tại Chicago.

Hình như là năm Bính Thân này cũng thế, mà hơi trái ngược, vì kinh tế cũng là chính trị!

***

Nói về kinh tế, kề từ năm 1962, thị trường chứng khoán Hoa Kỳ được bơm thuốc bổ và tăng vọt hơn 80% rồi bể tan tành sau năm 1969 vì nạn vay mượn quá nhiều và đưa kinh tế vào giai đoạn suy trầm, với đỉnh cao là việc Chính quyền Richard Nixon thả nổi đồng Mỹ kim từ Tháng Tám năm 1971. Cuộc chiến Việt Nam là một nguyên nhân, nhưng không là tất cả.

Chạy vội qua chuyện kinh tế ngày nay thì Hoa Kỳ còn mắc nợ nhiều hơn nửa thế kỷ trước.

Chánh sách cải tạo xã hội của Tổng thống Barack Obama và cuộc chiến chống khủng bố Hồi giáo gặp những hạn chế của kế toán quốc gia: bội chi và công trái. Khi Hành pháp bị tê liệt, và còn bị ách tắc từ đảng Cộng Hòa đối lập bên Lập pháp, Ngân hàng Trung ương phải một người một ngựa lao vào cứu nguy kinh tế với những biện pháp tiền tệ cực kỳ bất thường.

Đó là hạ lãi suất tới số không, rồi ba đợt bơm tiền qua phương pháp “quantitative easing” – tăng mức lưu hoạt có định lượng – và cũng lại thổi lên trái bóng cổ phiếu. Giới đầu tư có tài sản thì hài lòng với biện pháp tiền tệ ấy, giới đầu tư cò con muốn lập xí nghiệp kinh doanh thì chết kẹt vì chánh sách cải tạo của Hành pháp. Thành phần trung lưu bất mãn, người nghèo thì phẫn nộ và kết tội các chính khách chuyên nghiệp.

Ấn bản Bính Thân 16 của lập luận mị dân đại chúng Mâu Thân 68 là hai ứng cử viên nổi danh của hai đảng. Bên Dân Chủ, Bernie Sanders là chính khách bất tài có quá khứ thân cộng nhưng mang dáng vẻ chân thật. Bên Cộng Hòa là tỷ phú Donald Trump, người nói càng sống sượng lại càng được quần chúng ủng hộ! Các ứng cử viên nhiều kinh nghiệm thì bị hoài nghi là giảo hoạt – Hillary Clinton – hay tẻ nhạt, trường hợp của Jeb Bush vừa bỏ cuộc sau nhiều cựu Thống đốc tài danh khác!

Chẳng vậy mà vừa bóc tờ lịch Bính Thân, người người đều lo rằng thị trường chứng khoán Hoa Kỳ sẽ sụt giá nữa, như đã thấy từ đầu năm 2016, và kinh tế Mỹ sẽ lại bị suy trầm. Vậy mà tình hình Hoa Kỳ vẫn có vẻ khá hơn cả, nếu ta không nhìn qua Trung Quốc của Chủ tịch Tập Cận Bình và những xoay trở khôn nguôi.

Hoặc nhớ đến Âu Châu với Ngân hàng Trung ương ECB đã hạ lãi suất tới mức âm, y như ba nước Âu Châu là Thụy Sĩ, Thụy Điển và Đan Mạch. Đầu năm nay, đến lượt Ngân hàng Trung ương Nhật cũng từ bỏ chánh sách bất thường là áp lãi suất vào số không (ZIRP –Zero Interest Rate Policy) để áp dụng biện pháp còn bất thường hơn, là “lãi suất âm” (NIRP, Negative Interest Rate): nếu ký thác ngoài mức dự trữ pháp định thì bị phạt, phải trả tiền lời.

Khác với kinh tế Mậu Thân 68, khi người ta e sợ lạm phát, kinh tế Bính Thân 16 là khi các nước lo ngại nạn giảm phát, và cần khuyến khích tiêu thụ. Kẹt một nỗi, khi đã mắc nợ quá nhiều thì càng tiêu lại càng tán!  

***

Trước hoàn cảnh quá sức bất thường này, ta bình luận thế nào về chuyện kinh tế và chính trị?

Trước hết là nạn khủng hoảng chính trị lan rộng trong nhiều quốc gia khiến các chính quyền bị tê liệt và khó áp dụng biện pháp kích thích kinh tế cổ điển, như tăng chi để kích cầu. Gánh nợ quá lớn chồng chất từ năm 2008 khiến các chính quyền không thể tăng chi mãi mãi theo lòng hào hiệp hay do nhu cầu mua phiếu. Mà giảm chi để phần nào quân bình ngân sách thì bị đả kích là bảo thủ, vô tâm, khắc khổ, và thất cử.

Vì vậy, các chính quyền đều trông chờ vào một định chế độc lập là Ngân hàng Trung ương.

Các định chế này cũng áp dụng biện pháp tiền tệ là làm cho tiền nhiều và rẻ tới độ bất thường. Mà vẫn chưa thấy kết quả. Chánh sách kích cầu, nhằm nâng mức cầu, là sở trường của khuynh hướng Keynesian (từ kinh tế gia John Maynard Keynes người Anh), cũng không có tác dụng.

Ngay trong khuynh hướng kinh tế thiên tả ấy, người ta đã thấy có tranh luận về lãi suất. Giới chức hữu trách của hệ thống Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ cho rằng nếu tình hình kinh tế có vẻ khả quan hơn – thực tế là chưa – thì họ nên tăng lãi suất. Tháng 12 vừa qua, lãi suất ngắn hạn đã từ số không nhích lên được 25 điểm căn bản (0,25%), rồi cứ nằm im ở đó.

Cũng thuộc lý luận kinh tế thiên tả, các chuyên gia kinh tế Mỹ ngồi ngoài Ngân hàng Trung ương thì tiếp tục chủ trương bất thường, là đừng tăng mà nên chuẩn bị hạ lãi suất nữa nếu tình hình thiếu khả quan. Từ 0,25% có khi sẽ trở lại 0% hay còn thấp hơn nữa, như trường hợp Âu Châu và Nhật Bản! Tức là lại đọc thần chú, từ ZIRP về NIRP!

Ai đúng ai sai đây?

Dù chẳng biết gì nhiều về kinh tế học thì ta cũng có thể đoán rằng tình hình chưa mấy khả quan nên giữa hai trường phái của cùng một học thuyết mới có cuộc tranh luận của các thầy thuốc trước con bệnh kinh tế. Nói theo Đông Y là nên “bổ”, là hạ lãi suất, chứ nếu “tả” là tăng lãi suất thì cả kiến trúc kinh tế tài chánh này sẽ sụp đổ!

Bệnh nhân mà hiểu ra thì tưởng mình đang ở trong nhà thương điên….

Khi ấy, người ta mới thắc mắc, là vì sao giới kinh tế lại không dự đoán nổi tình trạng bất thường ấy, từ những năm 2007-2008 hay 2010-2012? Người viết này có một cách lý giải rất khoa học: giới kinh tế toa rập với các thầy bói, để chứng minh rằng bói toán chính xác hơn kinh tế học!

Chỉ vì kinh tế học không là một khoa học chính xác như vật lý. Vì vậy, nếu chịu khó theo dõi dự báo kinh tế của các tổ chức quốc tế đáng kính nhất, người ta đều thấy chung một nét là quá lạc quan, sau khi đã liên tục điều chỉnh cho bớt nét hỏang tiều. Vì thời lượng có hạn nên xin miễn nhắc tới nhiều dự đoán trật chìa của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF, Ngân hàng Thế giới WB, hay tổ chức OECD, thậm chí của cơ quan CBO tại Hoa Kỳ….  

Phụ trách cột mục này, người viết không thể cứ hoài nghi giới chuyên gia mà cũng phải có một lý luận dù chỉ đáng ba xu về tình trạng bất thường tới bi đát ấy.

Mọi sự không xảy ra từ năm Mậu Thân 68 mà gần hơn, từ năm Mậu Tý 2008!

Chúng ta, cả thế giơi, chưa ra khỏi cơn chấn động bất ngờ của 2008 và nạn Tổng suy trầm sau đó vào năm 2008-2009. Khi ấy, nếu không hốt hỏang mà nhìn lại thì người ta có thể thấy ra nhiều chuyển động âm thầm mà mạnh mẽ. Người ta không trả nợ mà còn mắc nợ nhiều hơn. Khuynh hướng đẻ con cũng giảm khiến dân số nói chung tăng rất chậm. Đà gia tăng năng suất từ sau Thế chiến II cũng chậm dần khiến lợi tức của thành phần trung lưu tăng không kịp thành phần thượng lưu có tiền. Những định chế rường cột của nền dân chủ, điển hình là các chính trị gia, quốc hội và truyền thông báo chí, đều mất niềm tin của dân chúng và khuynh hướng cực đoan nổi lên từ cả hai cánh tả hữu. Trong khi ấy, bối cảnh quốc tế là những vụ khủng hoảng liên tục, có hay không có súng nổ. Và riêng Hoa Kỳ thì bị thế giới coi thường và lãnh đạo Hoa Kỳ bị dân Mỹ khinh thường!

Vì vậy, bài này mở đầu với chuyện Mậu Thân và kết thúc với Marx.

Không, không phải Karl Marx mà một nhân vật đáng yêu hơn nhiều. Nghệ sĩ Groucho Marx. Danh hài này có một câu khả dĩ là khẩu hiệu tranh cử cho các chính trị gia Hoa Kỳ năm nay: “Tôi là người cực kỳ tôn trọng nguyên tắc. Nhưng nếu quý vị không đồng ý với nguyên tắc này của tôi thì tôi lại có sẵn nguyên tắc khác”…

Nếu còn sống, Groucho Marx có thể là phát ngôn viên của Bernie Sanders hay Donald Trump. Hay của cả hai. Ai bảo kinh tế học là khoa học u ám?

Việt Nam Tiến Tới 2035


Nguyên Lam & Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA Ngày 160224
"Diễn đàn Kinh tế"
 
 Trong 20 năm kinh tế Việt Nam phải tăng trưởng 7% một năm - rất khó nếu còn bị bó vì đảng



000_Hkg10257027-622
* Hôm 23/2/2016, Ngân hàng Thế giới vừa công bố bản phúc trình soạn thảo cùng Chính phủ Việt Nam về lộ trình cải cách để nâng Việt Nam lên tầng lớp quốc gia có lợi tức trung bình cao vào năm 2035. AFP * 
 
 
 


Hôm Thứ Ba, Ngân hàng Thế giới vừa công bố  bản phúc trình soạn thảo cùng Chính phủ Việt Nam về lộ trình cải cách để nâng Việt Nam lên tầng lớp quốc gia có lợi tức trung bình cao vào năm 2035. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu về những khuyến nghị cải cách qua phần phân tích sau đây của chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.

Phải tăng trưởng 7% một năm

 

Nguyên Lam: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, hôm Thứ Ba 23, Ngân hàng Thế giới vừa phổ biến một tập sách có tiêu đề là “Việt Nam 2035 – Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và Dân chủ”. Đây là kết quả nghiên cứu do Ngân hàng Thế giới cùng Chính phủ Việt Nam thực hiện từ giữa năm 2014 với sự tham gia của các chuyên viên quốc tế và Việt Nam nhằm đưa ra những khuyến cáo về đường hướng cải cách cho Việt Nam. Đã tham khảo báo cáo này cùng nhiều phúc trình trước đó của các định chế quốc té, ông nghĩ sao về những hướng cải cách đã được chính Chủ tịch Ngân hàng Thế giới là ông Jim Yong Kim nhấn mạnh khi cho công bố tập sách này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa là về bối cảnh thì Ngân hàng Thế giới và Chính phủ Việt Nam thỏa thuận tiến hành dự án nghiên cứu hỗn hợp này từ Tháng Bảy năm 2014 do nguồn viện trợ của Chính phủ Úc, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Hàn Quốc và Bộ Phát triển quốc tế Vương quốc Anh, với phần đóng góp kỹ thuật của các chuyên gia quốc tế, cán bộ Việt Nam cùng nhiều nhà tư vấn độc lập. Mục tiêu của công trình nghiên cứu này là giúp Việt Nam thực hiện một lộ trình cải cách để trong 20 năm nữa sẽ đưa Việt Nam vào tầng lớp quốc gia có lợi tức trung bình.

Một cách ngắn gọn cho dễ nhớ thì nếu cải cách, từ lợi tức bình quân của một người dân hiện ở khoảng hai nghìn đô la một năm đến năm 2035 sẽ được bảy nghìn đồng. Nếu không thì chỉ được tối đa là bốn nghìn rưởi.Nguyễn-Xuân Nghĩa

- Một cách ngắn gọn cho dễ nhớ thì nếu cải cách, từ lợi tức bình quân của một người dân hiện ở khoảng hai nghìn đô la một năm đến năm 2035 sẽ được bảy nghìn đồng. Nếu không thì chỉ được tối đa là bốn nghìn rưỡi. Một cách chuyên môn hơn thì trong 20 năm tới kinh tế Việt Nam phải tăng trưởng 7% một năm với phẩm chất cao hơn hiện tại mặc dù đà tăng trưởng chỉ có thể ở khoảng 3,5% đến 4% một năm thôi nếu tính theo mức tăng của năng suất lao động và nếu căn cứ trên ước lượng năm ngoái của Bộ Kế Hoạch và Đầu tư của Hà Nội, đà trưởng của Việt Nam chỉ được có 5,88% trong giai đoạn của kế hoạch năm năm 2011-2015. Vài con số đơn giản ấy cho thấy yêu cầu 7% có phẩm chất thật ra là khá cao, được các chuyên gia phân giải vào ba lĩnh vực gọi là trụ cột với 12 hướng cải cách cụ thể.


Nguyên Lam: Thưa ông, đã đọc các khuyến nghị về đường hướng cải cách thì ông thấy điểm nào là đáng chú ý nhất cho một lộ trình phải tiến hành trong vòng 20 năm tới?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Bản phúc trình khéo mở đầu với Điều 3 của Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc có điều kiện phát triển toàn diện”.

- Tức là cả trăm chuyên gia muốn giúp dân Việt thực hiện một khát vọng ghi trong Hiến pháp, mà muốn vậy thì trước tiên Việt Nam phải nâng cao năng lực và trách nhiệm giải trình của nhà nước, qua ba hướng là 1) phân định rõ vai trò và trách nhiệm trong hệ thống nhà nước và xây dựng bộ máy hành chính có thực tài - mà tôi còn nghĩ là thực quyền; 2) phân biệt rõ ràng vai trò của khu vực công và khu vực tư trong nền kinh tế, và nhà nước phải đóng vai trò hoạch định và xây dựng khung chính sách chứ không tham gia sản xuất; và 3) tăng cường sự tham gia của người dân và sự kiểm soát và cân bằng giữa các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp.


Nguyên Lam: Hiểu như vậy thì nếu muốn hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ, là những khát vọng ghi trong Hiến pháp mà chưa có trong thực tế của kinh tế và đời sống, chính là nhà nước Việt Nam phải cải cách để nâng cao năng lực và nhất là nâng cao trách nhiệm giải trình của mình. Thưa ông, phải chăng bài toán kinh tế của Việt Nam để bước vào tầng lớp quốc gia có thu nhập trung bình lại nằm trong lĩnh vực chính trị? 



000_Hkg10257025-622.jpg
Báo cáo Việt Nam 2035 vừa được Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Jim Yong Kim công bố trong cuộc họp báo sáng 23/2/2016 tại Hà Nội.


Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Các chuyên gia quốc tế và cả Việt Nam cũng đều biết kinh tế của các nước nghèo chỉ phát triển, chứ không chỉ gia tăng sản xuất là tăng trưởng, nếu vượt được nhiều trở ngại. Trở ngại lớn nhất không thuộc về chuyên môn, kể cả trong các địa hạt xã hội như giáo dục, đào tạo và sáng tạo, mà nằm trong hệ thống chính trị.

- Một vài quốc gia đã từ trình độ lợi tức thấp hay trung bình mà tiến vào tầng lớp giàu có thịnh vượng nhất chính là nhờ quyết tâm chính trị để có một bộ máy nhà nước tinh giản và hữu hiệu. Bộ máy ấy chỉ đạt tiêu chuẩn tiên tiến khi chịu trách nhiệm trước quốc dân, tức là phải tôn trọng quyền dân, phải giải trình công tác của mình và tôn trọng dân chủ.

- Trong một tài liệu chuyên môn dù sao cũng mang đặc tính ngoại giao để khỏi làm quốc gia cầu viện phật ý, người ta chỉ nhắc khẽ là Việt Nam cần “tăng cường sự tham gia của người dân và sự kiểm soát và cân bằng giữa các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Còn mọi người trong cuộc, kể cả trong đảng Cộng sản độc quyền, đều hiểu thực thi dân chủ là một điều kiện. Còn lại, các khuyến cáo chuyên môn hay kỹ thuật khác thì vẫn như thông lệ mà thôi.

 

Những thách thức


Nguyên Lam: Nhưng khi nêu ra khuyến cáo ấy thì công trình nghiên cứu hỗn hợp này cũng mặc nhiên cho thấy nhiều yếu kém hay bất cập của Việt Nam khiến xứ này khó tiến lên trình độ lợi tức trung bình nếu không chuyển đổi. Thưa ông, theo Ngân hàng Thế giới thì những yếu kém ấy là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Sau khi ngợi ca thành tựu của “30 năm đổi mới”, phúc trình cho biết Việt Nam đang đứng trước bước ngoặt của cải cách và phát triển. Việt Nam có thời cơ và thuận lợi rất lớn trong quá trình hội nhập sâu rộng hơn, như việc gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN và Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP, nhưng thách thức và khó khăn cũng rất lớn.

- Thách thức đầu tiên là Việt Nam ít kinh nghiệm quốc tế về cải thiện năng suất vì vấn đề lại tùy thuộc vào cải cách chính trị. Thứ hai, các chương trình cải cách quy mô cần phương tiện tài chính, mà ngân sách nhà nước còn hạn hẹp nên phải có sự tham gia đầu tư nhiều hơn của tư nhân, cùng các biện pháp chuyên môn để nâng cao hiệu quả đầu tư của công quyền và mở rộng việc huy động thị trường vốn ở trong và ngoài nước. Thứ ba, thịnh vượng kinh tế phải đi đôi với môi trường sinh sống lành mạnh và bền vững là điều Việt Nam chưa có mà lại bị ô nhiễm nặng và không thể ứng phó với nạn biến đổi khí hậu. Thứ tư, Việt Nam cũng chưa thể tìm ra thịnh vượng nhờ năng suất và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa thì nên trước tiên phát huy các thể chế thị trường thiết yếu, đặc biệt là quyền sở hữu tư nhân, và đẩy mạnh việc cải cách để tư nhân hóa hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Thứ năm, Việt Nam cần thúc đẩy công bằng và hội nhập các thành phần xã hội trong viễn ảnh lão hóa dân số, đô thị hóa hỗn độn và trong tình trạng bất công của các sắc tộc thiểu số và theo hướng này, Việt Nam còn phải cải thiện chế độ hộ khẩu cho khoảng năm triệu người hiện không có hộ khẩu ở nơi thường trú.

Do sự lãnh đạo của một đảng độc quyền, các định chế công lập đã bị thương mại hóa, cát cứ, manh mún và thiếu sự giám sát của người dân nên dẫn tới nhiều tệ đoan như tham nhũng và sự hoành hành của các nhóm lợi ích. Nguyễn-Xuân Nghĩa

- Sau cùng, quan trọng nhất vẫn là khả năng quá yếu mà quyền hạn quá cao của một nhà nước không có trách nhiệm giải trình. Năng suất trì trệ hiện nay và môi trường yếu kém cho phát triển khu vực tư nhân là do nhà nước còn thiếu hiệu quả. Do sự lãnh đạo của một đảng độc quyền, các định chế công lập đã bị thương mại hóa, cát cứ, manh mún và thiếu sự giám sát của người dân nên dẫn tới nhiều tệ đoan như tham nhũng và sự hoành hành của các nhóm lợi ích.


Nguyên Lam: Thưa ông, sau khi lượng định như vậy rồi thì bản báo cáo này khuyến nghị những gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ngân hàng Thế giới vạch ra ba cột trụ cần xây dựng cho Việt Nam trong 20 năm tới, từ nay đến 2035. Đó là 1) phải tìm sự thịnh vượng kinh tế trong môi trường bền vững; 2) thúc đẩy công bằng và kết hợp xã hội để không loại bỏ thành phần nào; 3) tăng cường khả năng của nhà nước, với ngụ ý là nâng pháp quyền nhà nước trước sức mạnh của đảng, và nâng trách nhiệm giải trình của nhà nước với quốc dân, tức là phải thực thi dân chủ.

- Nhằm xây dựng ba cột trụ ấy, các chuyên gia nêu ra 12 hướng cải cách cụ thể như sau. Cho yêu cầu thịnh vượng kinh tế thì phải 1) tạo dựng môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam; 2) đẩy mạnh việc học hỏi và cải tiến sáng tạo để xã hội có nhiều sáng kiến; 3) cải tổ cơ chế và chính sách đô thị hóa để phát triển các thành phố năng động. Cho mục tiêu công bằng và hòa nhập xã hội thì phải 1) phá bỏ rào cản và gia tăng cơ hội hòa nhập đồng bào thiếu số; 2) tạo điều kiện cho người bị khuyết tật dễ dàng tham gia vào sinh hoạt của xã hội; 3) tháo gỡ những ràng buộc vì chế độ hộ khẩu để mở ra cho mọi người cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội; 4) giảm thiểu những phân biệt vẫn còn về giới tính nam nữ. 

- Quan trọng nhất, cho mục tiêu cải tiến bộ máy nhà nước thì 1) phải phân định vai trò và trách nhiệm của viên chức nhà nước và xây dựng bộ máy hành chính công quyền có thực tài; 2) phân biệt rõ ràng hai khu vực công và tư và nhà nước chỉ giữ vai trò kiến tạo khung chính sách chứ không tham gia hoạt động sản xuất và tay chân nhà nước lấn lướt tư doanh; 3) tăng cường sự tham gia và giám sát của người dân trong một hệ thống tam quyền phân lập là quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

- Then chốt ở đây là cột trụ thứ ba nằm tạo ra một cấu trúc nhà nước mạnh mẽ hơn và đảm bảo chế độ chức nghiệp có thực tài. Và khỏi nhắc đến phạm trù “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” thì các chuyên gia nhấn mạnh rằng nguyên tắc thị trường cần được áp dụng đầy đủ hơn trong việc hoạch định chính sách kinh tế trên cơ sở phân định hai lĩnh vực công cộng và tư nhân, hạn chế xung đột lợi ích, tăng cường bảo vệ quyền tài sản, đặc biệt là về đất đai, thực thi cạnh tranh thị trường và hợp lý hoá sự tham gia của nhà nước trong nền kinh tế.

Nguyên Lam: Là một chuyên gia đã từng giữ chức vụ Thứ trưởng Tài chính của Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ngày xưa, lại cũng được Ngân hàng Thế giới huấn luyện cách nay hơn 40 năm, ông kết luận thế nào về bản phúc trình cho Việt Nam trong 20 năm tới?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ là do yếu tố lịch sử bi thảm, một định chế quốc tế đang phải khuyến cáo Việt Nam là nên hợp lý hóa sự tham gia của nhà nước trong nền kinh tế. Nghĩa là phải đi từ tắc nghẽn căn bản là minh định lại vai trò của nhà nước trước một đảng độc quyền. Sự mỉa mai ở đây là Việt Nam được ba nước Úc, Nhật và Nam Hàn viện trợ để thi hành điều mà các lân bang đã cố làm từ nhiều thập niên trước. Trong khi nhà nước đang xin viện trợ thì cán bộ của đảng là viên chức của nhà nước thì lại có cuộc sống xa hoa hoang phí trước sự bần cùng của đa số người dân. Mấy chục năm trước, tôi học được bài học cần kiệm và liêm chính của giới chức Nam Hàn và Đài Loan nên hiểu được vì sao hai nền kinh tế ấy trở thành loại giàu có tiên tiến trên một nền móng dân chủ và xã hội công bằng. Ngày nay, các chuyên gia Việt Nam cũng ý thức được điều ấy sau khi hợp tác nghiên cứu với quốc tế, nhưng lãnh đạo có thấy không và người dân có muốn thay đổi hay chăng thì chúng ta chưa biết được.


Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á châu Tự do xin cảm tạ ông Nguyễn Xuân Nghĩa về bài phỏng vấn này.

Thứ Hai, 1 tháng 2, 2016

Chính sách kinh tế qua nghị quyết đại hội XII


Tôn Thất Thông
Cộng Hoà Liên Bang Đức


Đại hội lần thứ XII đảng CSVN vừa chấm dứt không lâu. Trước đó người ta chờ đợi một biến chuyển nào đấy dù lớn hay nhỏ về mặt chính sách, nhất là chính sách kinh tế. Đọc kỹ nghị quyết thì chúng ta thấy trong văn kiện cực kỳ quan trọng này, nhiều câu chữ được lập lại nhiều lần suốt nhiều đại hội trong quá khứ. Người đọc không có cảm giác hân hoan chờ đón một thời kỳ mới với những chính sách cụ thể, và nhất là qua câu chữ chúng ta không tìm thấy một nội dung cụ thể khả dĩ giúp cho cán bộ các cấp định hướng công việc của họ.
Về mặt kinh tế, nghị quyết ghi: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ)[1]Như vậy là đường lối cơ bản về kinh tế vẫn không có gì thay đổi. Ở đây chúng ta chưa bàn đến tính chất hài hòa hay mâu thuẩn đối chọi giữa hai vế của cụm từ ở trên: một bên là kinh tế thị trường và bên kia là định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều dễ thấy là, cốt lõi của các hoạt động kinh tế do nghị quyết đưa ra vẫn không thay đổi: tiến đến nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, dù rằng mọi người, kể cả những vị lãnh đạo cao nhất đều nhận thức được tính ưu việt của nền kinh tế thị trường. Có người trong giới lãnh đạo còn gọi “kinh tế thị trường là tinh hoa của kiến thức nhân loại”. Vậy chúng ta thử bàn thêm về hai vế của cụm từ ở trên, may ra tìm được một hướng đi nào có ích chăng?

Kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa (XHCN)
“Cụm từ hai vế” ấy xuất hiện lần đầu năm 2001 trong đại hội IX đảng CSVN, tức là cách đây 15 năm. Đấy là vấn đề ngôn từ, nhưng nếu xét về nội dung chính sách thì nó có nguyên ủy sâu xa hơn:  đi từ chính sách ghi trong nghị quyết khóa VI năm 1986 “Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”, trở thành “Phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN” ở khóa VII[2].
Như vậy là đã 30 năm. Và sau 30 năm, nhiều nhược điểm của chính sách nói trên đã bộc lộ, nền kinh tế quốc dân thay vì được vươn lên cho kịp các nước bạn trong khu vực, thì khoảng cách giữa họ và Việt Nam ngày càng lớn. Trong buổi họp tổng kết thành quả 30 năm đổi mới ngày 19.11.2015 tại Hà Nội, nguyên phó Thủ tướng Vũ Khoan phát biểu: “Người Việt Nam chúng ta thích tranh luận nhưng chỉ luẩn quẩn trong mấy chữ mà mất hai ba chục năm nay. Ví dụ, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cãi nhau 30 năm chưa kết thúc; rồi doanh nghiệp nhà nước là chủ đạo cũng cãi nhau 30 năm rồi không kết thúc. Những chuyện này còn tranh luận dài dài, không biết đến bao giờ kết thúc được[3]”. Và còn nhiều phê phán tương tự của những chuyên gia hàng đầu của Việt Nam như ông Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược, Bộ Kế hoạch và Đầu tư: “những khái niệm như kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, kinh tế nhà nước là chủ đạo,… như ‘vòng kim cô’ ghì chặt sự phát triển của đất nước[4]”.
Kinh tế Việt Nam vẫn trì trệ, rõ ràng vì không ai xác định được một nội dung cụ thể cho chính sách chủ đạo cho nên mỗi cán bộ hiểu mỗi cách khác nhau, lúc đưa ra quyết định thực hiện lại càng khác nhau xa. Có phải không ai gán được nội dung cụ thể vì nhận thức kém, hay thực chất không thể gán được nội dung vì tự bản chất chính sách đã mang sẵn mầm mống mâu thuẫn? Để trả lời câu hỏi đó, chúng ta hãy trở lại lý thuyết gốc của hai hệ thống: kinh tế thị trường và kinh tế XHCN. Mỗi hệ thống có những tính chất nền tảng khác nhau và có những công cụ quản lý khác nhau. Kinh tế thị trường lấy tư hữu tư liệu sản xuất làm nền tảng, trong lúc CNXH xem công hữu tư liệu sản xuất là mục đích hàng đầu cần đạt tới. Kinh tế thị trường dùng chế độ cạnh tranh làm công cụ phát triển, trong lúc CNXH xem kế hoạch trung ương là công cụ chủ đạo. Nói cho cùng thì thì công cụ quản lý là hệ quả tất yếu khi đứng trên những tính chất nền tảng khác nhau. Vậy chúng ta chỉ cần bàn đến những tính chất nền tảng, và có lẽ cũng chỉ cần bàn đến tính chất quan trọng nhất của nền kinh tế để tìm một nội dung đích thực cho “cụm từ hai vế” ở trên: Tính chất đó là “sở hữu tư liệu sản xuất”.

Vai trò của sở hữu tư liệu sản xuất
Câu hỏi về sở hữu tư liệu sản xuất (TLSX) là câu hỏi có ý nghĩa trung tâm về mọi chính sách kinh tế. TLSX ở đây cần hiểu một cách toàn diện. Nó không chỉ giới hạn trong máy móc phục vụ sản xuất mà còn bao gồm những phương tiện khác liên quan đến sản xuất, thí dụ đất đai để làm kho bãi, nhà cửa để làm văn phòng hoặc cho thuê mướn, cả trí tuệ cũng được xem là phương tiện sản xuất. Nói cách khác, khái niệm TLSX bao gồm tất cả các loại phương tiện để phục vụ cho hoạt động kinh tế, những hoạt động sinh ra lợi nhuận.
Ở đây chúng ta phân biệt giữa sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể và sở hữu nhà nước.    
Sở hữu tập thể TLSX và sở hữu nhà nước là công cụ sắc bén của một guồng máy sản xuất nhất định, có khả năng tạo ra phương tiện cực kỳ hiệu quả để thành phần lãnh đạo kinh tế có thể kiểm soát toàn bộ guồng máy sản xuất và từ đó chế ngự cả những thành viên trong guồng máy đó, mở rộng quyền lực chính trị lên mọi thành phần khác trong xã hội. Điều đáng chú ý hơn nữa của hai hình thái sở hữu này là, để guồng máy có thể hoạt động hữu hiệu, nó đòi hỏi một sự điều khiển từ trung ương lên quá trình hoạt động kinh tế cũng như lên kế hoạch sản xuất của từng đơn vị riêng lẻ, dù ở đó sự điều khiển có thể xuất hiện ở một mức độ thấp hơn[5].
Ngược lại, trong chế độ tư hữu TLSX, người sở hữu chỉ có thể chế ngự đơn vị hoạt động của mình, chứ không thể tác động lên kế hoạch sản xuất các đơn vị khác, và càng không thể điều khiển quá trình hoạt động kinh tế của toàn bộ guồng máy sản xuất trong xã hội. Anh ta chỉ là một thành viên bình đẳng như mọi thành viên khác, và nhờ thế tính cạnh tranh lành mạnh trên thị trường được bảo đảm, không ai chèn ép được ai.
Như vậy, để kiến tạo một trật tự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, việc thừa nhận tư hữu TLSX là điều bắt buộc, và trong toàn bộ nền kinh tế, khi tỉ lệ tư hữu TLSX càng cao thì khả năng tạo dựng trật tự cạnh tranh lành mạnh càng lớn. Nói cách khác, tư hữu TLSX là một trong những điều kiện tiên quyết của trật tự cạnh tranh trên thị trường[6] hay nói một cách chính xác hơn thì nó là một thuộc tính không thể thiếu được của kinh tế thị trường, lại là một thuộc tính cực kỳ quan trọng.
Tất nhiên là nhà nước cũng có quyền làm chủ một số đơn vị kinh tế thậm chí một số ngành như một tư nhân nào khác, thí dụ hệ thống cung cấp điện nước, giao thông vận tải, ngân hàng v.v… Điều này sẽ không làm rối loạn trật tự thị trường, nếu những đơn vị kinh tế đó cũng ép mình vào trật tự cạnh tranh chung. Khi các đơn vị kinh tế thuộc sở hữu nhà nước không sử dụng chế độ trợ cấp hoặc những ưu đãi khác để nâng cao thế cạnh tranh nhất là trong việc định giá để cạnh tranh trên thị trường, thì việc tồn tại các đơn vị kinh tế nhà nước là điều chấp nhận được[7] và thị trường cũng không vì thế mà bị rối loạn. Tuy nhiên cần lưu ý là, khi tỉ lệ công hữu trong nền kinh tế càng cao, thì hiệu quả sự điều tiết tính cạnh tranh thị trường càng giảm. Điều này tất yếu sẽ dẫn đến những bất hợp lý về giá cả, tình trạng độc quyền sẽ xuất hiện, và nếu kéo dài quá lâu thì đấy là mầm mống của trì trệ kinh tế.
Để làm rõ tác động của tư hữu TLSX lên cơ chế tự điều tiết của thị trường, chúng ta hãy lấy thí dụ về một xí nghiệp sản xuất thực phẩm. Nếu xí nghiệp này thuộc tư nhân thì người chủ hãng – thường là giám đốc – phải xem xét hàng ngày mức tiêu thụ món hàng mình sản xuất trên thị trường toàn ngành. Nếu mức tiêu thụ giảm sút, anh ta phải nhanh chóng tinh giảm số lượng sản xuất, nếu không thì sản phẩm sẽ tồn kho lâu, thực phẩm ung thối, xí nghiệp thua lỗ và trong nhiều trường hợp sẽ còn ảnh hưởng làm sụt giá thị trường, vòng xoáy rối loạn bắt đầu chuyển động và có thể dẫn đến phá sản cho hãng nào không kịp thời thay đổi. Đặc biệt trong những ngành sản xuất tương tự, sự tinh tế về mức tiêu thụ hàng ngày trên thị trường kết hợp với sự nhạy bén về quyết định kịp thời trong sản xuất là yếu tố cực kỳ quan trọng để xí nghiệp hoạt động thành công.
Cũng trong thí dụ ở trên, chuyện gì xảy ra khi xí nghiệp thuộc công hữu và giám đốc là công nhân viên nhà nước? Cho dù phát hiện mức tiêu thụ giảm, người giám đốc cũng không có quyết định nào khác hơn là tiếp tục sản xuất theo kế hoạch và chỉ tiêu đã được cấp trên giao xuống. Hàng làm ra có bán được hay không anh ta không quan tâm vì đấy là nhiệm vụ của xí nghiệp khác phụ trách việc phân phối. Hoặc cho dù người giám đốc có muốn tinh giảm sản xuất để cứu vãn thị trường, đề nghị của anh ta phải thuyết phục được cấp trên từ ban, đến ngành, đến bộ v.v… và nhận quyết định ngược lại từ trên xuống dưới. Con đường hành chánh rườm rà và tốn thì giờ này sẽ mất tính thời gian để kịp thời cứu vãn được điều gì. Như thế, với chế độ công hữu TLSX, thị trường chỉ có thể ổn định khi mọi dự đoán cung cầu rất chính xác và kế hoạch cấp trên từ trung ương đưa ra thật hoàn hảo. Nói một cách khác, chúng ta chỉ mong có được “một nhà độc tài cực kỳ sáng suốt” không bao giờ sai lầm. Trong trường hợp có sự cố bất thường[8] thì công hữu TLSX là yếu tố kìm hãm sự điều tiết giữa cung và cầu, thúc đẩy rối loạn thị trường, làm kinh tế đình trệ.
Cũng cần nói thêm rằng, biến động giá cả thị trường là những tín hiệu an-ten khẩn cấp để những ai quan tâm kịp thời phản ứng. Tín hiệu này tất nhiên sẽ được những người đi tiếp thị phát hiện trước hết. Quan tâm hàng đầu của một xí nghiệp tư nhân là tiếp thị bán hàng. Sản xuất chỉ là phương tiện để phục vụ nhu cầu đó, cho nên sản xuất luôn luôn được tối ưu hóa theo nhu cầu thị trường. Đấy là cơ chế tự điều chỉnh giữa sản xuất và phân phối bán hàng. Chế độ công hữu TLSX thì khác. Xí nghiệp phân phối không có nghiệm vụ báo cáo tình trạng thị trường cho xí nghiệp sản xuất, và ngược lại xí nghiệp sản xuất cũng không được phép thay đổi kế hoạch nếu không có lệnh từ cấp trên. Đường phản hồi từ thị trường về nơi sản xuất không tồn tại thì cơ chế tự điều chỉnh cũng không hoạt động được, hoặc nó cũng có thể được vận hành nhưng với một độ trì hoãn nhất định.  
Thí dụ trên cắt nghĩa được tại sao các nước hoặc các ngành có tỉ lệ công hữu TLSX cao không phát triển nhanh bằng các nước hoặc các ngành có cùng điều kiện, nếu nơi đó chế độ tư hữu TLSX chiếm đa số. Nếu chúng ta quan sát vài ngành trong đó có nhiều loại sở hữu khác nhau, chúng ta đều thấy là tỉ lệ lợi nhuận các xí nghiệp tư nhân thường cao hơn so với các xí nghiệp quốc doanh có cùng điều kiện kinh doanh. Chúng ta hãy quan sát thêm các tập đoàn quốc doanh đang làm ăn thua lỗ. Khi nhà nước quyết định cổ phần hóa cho tư nhân thì tập đoàn đó thường vươn dậy trở lại sau một thời gian ngắn. Điều này chúng ta thấy rõ trong những ngành quen thuộc như ngân hàng, giao thông vận tải, sản xuất xe hơi v.v… ở khắp nơi trên thế giới.
Nói tóm lại, khi chấp nhận hoạt động trong nền kinh tế thị trường, tư hữu TLSX là nhân tố quan trọng hàng đầu để cơ chế hoạt động hữu hiệu.
Thừa nhận tư hữu TLSX ở mức độ lớn và rải đều cho nhiều người không những mang lại lợi ích cho những tư nhân đó, mà còn có lợi cho toàn xã hội và bảo đảm cơ chế cạnh tranh thị trường hoạt đông hữu hiệu. Nó bảo đảm rằng, đứng trước một nhu cầu tiêu thụ trong thị trường, tất yếu sẽ có nhiều xí nghiệp khác nhau độc lập quyết định sản xuất và nếu cần họ sẽ đầu tư thêm tư bản và cơ sở vật chất để tìm cách cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ mà xã hội đang cần với mức giá hợp lý[9]. Khi có nhiều xí nghiệp khác nhau hoạt động độc lập trong đó mọi thành viên đều bình đẳng như nhau và tôn trọng luật chơi đã thỏa thuận, thế quân bình về quyền lực kinh tế sẽ dễ dàng được xác lập, thị trường mở dần dần thành hình và nền kinh tế có xu hướng ổn định lâu dài.
Sự ích lợi cho toàn xã hội không chỉ hạn chế trong lượng hàng phong phú và giá cả tối ưu. Bản thân sự kiện có nhiều xí nghiệp cùng quyết định song song nhưng độc lập với nhau đã là một yếu tố kích thích sáng tạo và tiến bộ. Người chủ xí nghiệp thường trực đặt cho mình nhiệm vụ là phải luôn luôn quyết định đúng, chọn qui trình sản xuất phù hợp, giảm phế phẩm, khuyến khích công nhân, tổ chức sản xuất tối ưu hợp lý v.v… để cung cấp sản phẩm và dịch vụ có chất lượng cao và giá cả phù hợp với chờ đợi của giới tiêu thụ. Mỗi lần làm một quyết định sai lầm là họ phải trả giá bằng tài sản của chính mình. Không ngừng tiến bộ để tồn tại, đấy là tâm niệm của mọi người chủ xí nghiệp tư nhân. Những tính chất ấy chúng ta khó tìm thấy trong những xí nghiệp quốc doanh, nơi mà người giám đốc chỉ là công nhân viên nhà nước.
Thừa nhận quyền tư hữu TLSX còn có tác dụng thúc đẩy đầu tư cơ sở vật chất, tức là một dạng làm giàu cho xã hội. Thật khó hình dung một tập đoàn nào đó có thể bỏ ra hàng tỉ đô la để xây dựng cơ sở sản xuất trên một vùng đất mà họ không chắc rằng các TLSX đó sẽ vĩnh viễn thuộc quyền sở hữu của họ. Nếu quyền này được thừa nhận bởi luật pháp, quyết định của họ sẽ dễ dàng hơn. Ở mức độ đầu tư thấp hơn như máy móc hoặc các phương tiện bình thường khác, hiệu ứng cũng tương tự như thế.
Ở các nước phát triển quyền tư hữu TLSX được thừa nhận không hạn chế, thường được ghi trong hiến pháp và được qui định cụ thể trong các đạo luật kinh tế. Người sở hữu có quyền sử dụng, thay đổi, cho thuê bán hoặc thậm chí phá hủy TLSX của mình, miễn sao những hoạt động đó không vi phạm qui định của luật pháp. Quyền sở hữu không hạn chế TLSX sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể tự ý quyết định và lập kế hoạch kinh doanh. Nếu quyền này bị một hạn chế nào đó, một số người sẽ ngần ngại và không sẵn sàng chấp nhận rủi ro trong quá trình hoạt động kinh tế của họ, từ đó các đầu tư quan trọng sẽ bị đẩy lùi về sau. Mọi hoạt động đều có tính chất ngắn hạn, ăn xổi ở thì.
Bây giờ chúng ta thử đặt câu hỏi: Liệu quyền tư hữu TLSX là một nhân tố luôn luôn bảo đảm cho trật tự cạnh tranh lành mạnh hay không? Rõ ràng là không luôn luôn. Hãy lấy một thí dụ: Khi một xí nghiệp tư nhân to lớn được xây dựng trong một thành phố nơi đó toàn bộ lao động không đủ để cung ứng cho nhu cầu nhân sự, xí nghiệp này sẽ trở thành kẻ độc quyền tiêu thụ trong thị trường lao động. Chúng ta khó mà tin cậy vào lòng tốt của những người đang nắm quyền lực kinh tế ghê gớm đó. Thế cạnh tranh lành mạnh sẽ mất, đi kèm với những hệ lụy xã hội tất yếu của nó mà kẻ gánh chịu là người lao động. Một thí dụ thứ hai: Tập đoàn xe buýt A với một đội xe vĩ đại được phép hoạt động trong tỉnh B, nơi các xí nghiệp xe buýt nhỏ chỉ chiếm một phần không đáng kể so với A. Tập đoàn này sẽ nhanh chóng làm cho các xí nghiệp nhỏ phá sản và trở thành độc quyền cung cấp dịch vụ xe buýt. Chế độ cạnh tranh thị trường không còn, giá cả có thể tăng vọt, giờ giấc tùy tiện v.v… và kẻ hứng chịu mọi hệ lụy chính là người dân trong tỉnh B đang cần sử dụng dịch vụ này.
Cả hai hình thức độc quyền ở trên - độc quyền cung cấp và độc quyền tiêu thụ - đều dẫn đến quyền lực kinh tế vào trong tay một thiểu số rất nhỏ có khả năng thao túng thị trường mà kẻ thiệt thòi là đại đa số người lao động yếu thế.
Các nghiên cứu kinh tế đã chỉ ra rằng, tư hữu TLSX trong thế độc quyền trên thị trường sẽ sinh ra những thiệt hại trầm trọng cho xã hội. Các tập đoàn tư nhân sẽ sử dụng quyền lực kinh tế của mình để triệt hạ xí nghiệp cạnh tranh, áp đặt giá cả lên giới tiêu thụ và thẳng tay bóc lột nhân viên của họ. Khi quyền lực kinh tế này trở thành áp đảo thì nhà nước cũng bó tay khi tìm cách hạn chế thiệt hại[10]. Đấy là tình trạng các nước công nghiệp trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi mà nền kinh tế tư bản chủ nghĩa sơ khai còn trong giai đoạn được thả lỏng (laissez-faire). Đời sống công nhân rất cùng cực, mất nhân phẩm và nếu chủ nghĩa tư bản cứ kéo dài như thế thì nó không xứng đáng được tồn tại và quyền tư hữu TLSX không đáng được bảo vệ.
Cuộc thay đổi bắt đầu từ đầu thế kỷ 20 và được tiến hành triệt để trễ nhất là sau cuộc đại khủng hoảng 1930. Kể từ đây các nước phát triển, từ những nước cực lớn như Mỹ đến các nước tí hon như Luxemburg, đều nhận thức được rằng đã đến lúc chủ nghĩa tư bản mà họ theo đuổi hàng nhiều thế kỷ cần phải được thay đổi sâu sắc. Họ đã nhận thức được chỗ yếu của chính sách thả lỏnglaissez-faire, đã thấm thía đâu là nguy cơ của quyền lực kinh tế. Chỉ vài thập niên sau, nước nào cũng có những cải tổ cơ cấu kinh tế mà quan trọng nhất là cải tổ hệ thống luật pháp để ngăn chận liên minh độc quyền trong hoạt động kinh tế cũng như nhiều đạo luật khác để xác lập cơ chế cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Một số nước khác thì đi xa hơn trong những chính sách xã hội có khả năng tạo dựng cho mỗi người một cuộc sống phồn vinh và bình đẳng như mọi người khác. Những cải cách các nước Bắc Âu rất đáng để tham khảo.
Vì vậy khi bàn về tư hữu TLSX để rút ra kết luận hòng đưa ra chính sách kinh tế phù hợp thì chúng ta phải bàn về quyền tư hữu trong giai đoạn từ giữa thế kỷ 20, khi mà trật tự thị trường đã thay đổi sâu sắc, chế độ cạnh tranh và mức độ liên minh độc quyền được giám sát một cách chặt chẽ bởi luật pháp và những cơ quan trung lập. Bàn tay quyền lực của nhà nước đã bị giới hạn, cũng như bàn tay thô bạo của những tư nhân trong lợi thế độc quyền không còn sức mạnh tuyệt đối. Trong bối cảnh đó, quyền tư hữu TLSX vừa là thuộc tính của kinh tế thị trường, vừa là công cụ hữu hiệu để điều tiết thị trường đạt ổn định một cách bền vững. Và cũng chỉ trong bối cảnh đó chúng ta mới có thể quả quyết rằng, quyền tư hữu TLSX sẽ là động cơ thúc đẩy sáng tạo, tiến bộ, nâng cao đầu tư dài hạn, mang lại lợi ích cho xã hội mà kẻ hưởng lợi là thành phần lao động đông đảo. 

Làm gì với chính sách mới?
Như vậy dưới góc nhìn của quyền sở hữu TLSX, kinh tế thị trường và định hướng XHCN là hai chính sách đối lập nhau như nước và lửa, dựa vào những nguyên lý khác nhau như ngày và đêm. Thúc đẩy nền kinh tế thị trường một cách thành công là tự nó sẽ thủ tiêu kinh tế XHCN, và ngược lại, tiến đến thành công nền kinh tế XHCN thì kinh tế thị trường sẽ không còn hoạt động được. Giữa hai vế của cụm từ nói trên khó có một sự hài hòa khả dĩ được đứng chung với nhau. Thế mà cụm từ này vẫn tồn tại 30 năm trên đất nước Việt Nam. Tại sao?
Chúng ta có thể đặt ra hai giả thuyết: thứ nhất, vì một mối u hoài với giấc mơ XHCN mà các nhà làm chính sách gán thêm vế định hướng XHCN vào chính sách kinh tế thị trường, nhưng thâm tâm họ cũng không mấy tin. Hoặc thú hai, kinh tế thị trường chỉ là chiến thuật trước mắt để nâng cao đời sống và khi tình hình cho phép thì nhà nước sẽ triệt hạ nó và tiến thẳng lên CNXH (có triệt hạ được hay không lại là chuyện khác).
Có lẽ giả thuyết thứ nhất có cơ sở hơn. Vậy để làm cho dân giàu nước mạnh, chuyên viên kinh tế các cấp cứ tạm thời quên cái vế “định hướng XHCN” khi đưa ra các chính sách trong mọi ngành hoạt động, tại mỗi địa phương, trong mọi thời kỳ. Cũng không phải chỉ có lĩnh vực kinh tế, mà cả trong nhiều lĩnh vực khác, mà quan trọng nhất là luật pháp cũng cần quên cái “định hướng” ấy. Chỉ như thế, Việt Nam mới hy vọng vươn ra khỏi bế tắc triền miên hiện nay để hòa đồng vào cộng đồng kinh tế thế giới.
Tôn Thất Thông
Cuối tháng giêng 2016

Tài liệu tham khảo

1.     Eucken, Walter  XE „Eucken, Walter" 
Những luận đề cơ bản về chính sách kinh tế
Grundsätze der Wirtschaftspolitik
ISBN 31-6345-548-4

Ghi chú
[1] Xem tài liệu [ REF _Ref442005430 \r \h 4] trang 6, Nghị quyết đại hội
[2] Xem tài liệu [ REF _Ref442006954 \r \h 3] trang 4, Huỳnh Thế Du
[3] Xem tài liệu [ REF _Ref442007784 \r \h 6], Tư Giang
[4] Xem tài liệu [ REF _Ref442007784 \r \h 6], Tư Giang
[5] Xem tài liệu [1] trang 270, W. Eucken
[6] Xem tài liệu [1] trang 271, W. Eucken
[7] Xem tài liệu [5] trang 199, H-R Peters
[8] Có thị trường nào mà không có sự cố bất thường? Lý thuyết kinh tế chỉ cho chúng ta rằng, cung và cầu luôn luôn thay đổi theo thời gian, cho nên việc điều tiết sản xuất (cung cấp) để đạt một quan hệ tối ưu với thị trường (tiêu thụ) là yếu tố then chốt của thành công.
[9] Xem tài liệu [2] H. Höfer
[10] Xem tài liệu [1] trang 272-273, W. Eucken