Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2013

Xã hội của tinh thần doanh nhân

TTCT - Khi đặt chân đến sân bay Tel Aviv cách nay vài năm, điều đầu tiên tôi nghĩ là chưa có nơi nào trên thế giới mà người ta kiểm soát an ninh gắt gao đến thế. Và nếu an ninh đáng ngại như vậy, ai sẽ muốn đầu tư làm ăn ở đây?

Nhưng Israel đã cho tôi thấy một đất nước ổn định, hiện đại bên bức tường an ninh gây tranh cãi dài 700km, phân chia nơi sinh sống của người Israel và Palestine ở Bờ Tây.
Lý do để có cuộc sống hiện đại của Israel được giải thích xuất sắc trong cuốn Start up nation - the story of Israel economic miracle (*). Một câu chuyện thú vị về con đường kiến tạo quốc gia Israel dưới góc độ kinh tế, với các câu chuyện chủ yếu xoay quanh sự hợp tác của các doanh nhân và hỗ trợ từ các nhà lãnh đạo đất nước.
Dưới góc nhìn của hai nhà nghiên cứu, cây bút đều có dòng máu Do Thái là Dan Senor và Saul Singer, bạn đọc có được câu chuyện đầy những dữ liệu đáng kinh ngạc, đầy cảm hứng về các nhà sáng chế, đầu tư và doanh nhân Israel nói riêng và cộng đồng kinh doanh Israel nói chung.
Quốc gia có nhiều công ty khởi nghiệp
"Điều khiến thế giới ngả mũ là nhiều công ty khởi nghiệp Israel đều dựa trên các sáng kiến, phát minh của chính họ".
Một xã hội của tinh thần sáng tạo và tinh thần doanh nhân là lời giải thích cho thành công về kinh tế của Israel. Với GDP bình quân đầu người Israel là 32.200 USD năm 2012, Israel đang nằm trong tốp đầu thế giới khi nói tới quân sự, nông nghiệp, công nghệ, sinh học...
Dù chỉ có 7,1 triệu dân (tương đương với TP.HCM), lịch sử ra đời chỉ 60 năm, không tài nguyên, xung quanh nhiều bất trắc và thường xuyên trong tình trạng sẵn sàng chiến tranh, Israel lại có nhiều công ty khởi nghiệp hơn các quốc gia lớn, an bình và ổn định khác như Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc, Canada và Anh. Điều khiến thế giới ngả mũ là những công ty khởi nghiệp đó đều dựa trên các sáng kiến, phát minh của chính họ.
Israel thu hút lượng đầu tư mạo hiểm - mô hình đầu tư còn rất mới mẻ ở Việt Nam (Israel có 70 quỹ hiện hoạt động, tính trên đầu người cao gấp đôi Mỹ và gấp 30 lần so với châu Âu, Việt Nam mới có một số quỹ khá hạn chế). Mô hình này rót vốn vào những doanh nghiệp mới thành lập, chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán vì nhà đầu tư tin doanh nghiệp sẽ thành công và đem lại lợi nhuận lớn cho họ.
Niềm tin đó ở đâu ra nếu không nhờ sáng kiến, tinh thần khởi nghiệp, kinh doanh, các chính sách ổn định và hỗ trợ của nhà nước?
Đọc sách, bạn có thể đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi đọc đến những tên nhà đầu tư, những doanh nghiệp, những doanh nhân, những nhà phát kiến được đề cập, và sẽ tự hỏi: "Liệu có doanh nghiệp lớn, vụ đầu tư lừng danh hay sáng kiến nào trên thế giới mà không có vai trò của người Israel?".
Bạn, có lẽ cũng giống tôi, sẽ không dễ tìm ra đâu. Cái hay của cuốn sách chính là những câu chuyện kể như giai thoại mà hai tác giả đã dành rất nhiều thời gian để nghiên cứu, phỏng vấn nhiều nguồn và dùng ngòi bút dựng lại sự kiện.
Tinh thần khởi nghiệp
Tất nhiên, quá trình tạo dựng nên sự thần kỳ của nền kinh tế Israel sẽ là thiếu sót nếu không nhắc tới vai trò của khoản viện trợ khổng lồ 118 tỉ USD từ Mỹ ngay sau Thế chiến 2 tới nay. Theo nghiên cứu năm 2013 của Jeremy M. Sharp, chuyên viên các vấn đề Trung Đông của Vụ Nghiên cứu Quốc hội Mỹ, Israel là nước nhận viện trợ nước ngoài từ Mỹ lớn nhất kể từ khi chiến tranh kết thúc. Dù hiện đa số viện trợ dành cho quân sự nhưng trong quá khứ, viện trợ để phát triển kinh tế chiếm lượng lớn.
Ngoài ra, chính sách di dân rất khôn ngoan cũng giúp Israel nâng cao sự tinh túy của dân số. Israel hiện có dân nhập cư từ 70 quốc gia, có số lượng kỹ sư và nhà khoa học tính trên đầu dân cao hơn bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới. Sáng kiến từ đó mà ra.
Khi ra mắt cuốn sách năm 2009, đúng thời điểm kinh tế thế giới bắt đầu rơi vào suy thoái, hai tác giả nhận định Mỹ và thế giới phải học nhiều từ Israel để không những phục hồi được kinh tế mà còn có thể duy trì sự phát triển bền vững. Không dễ học tinh thần của người Israel, nhưng bài học cần kíp nhất với những nước đang phát triển như Việt Nam chính là tinh thần khởi nghiệp và tinh thần tôn vinh doanh nghiệp trong xã hội.
Tinh thần khởi nghiệp của người Israel được kể rằng: "Khi đàn ông Israel muốn hẹn hò với một cô gái, anh mời cô đi chơi tối. Khi doanh nhân Israel có ý tưởng kinh doanh, anh ấy bắt tay làm luôn trong một tuần". Còn doanh nhân, có lẽ họ cần hơn cả là nền tảng luật pháp ổn định và các chính sách thông thoáng, cởi mở của chính phủ.
Chúng ta cũng cần học tinh thần chutzpah (thái độ dũng cảm, táo bạo, lì lợm, dám làm) và bitzua (làm là phải làm cho xong, cho được) của người Israel.
HẠNH NGUYÊN
___________
(*): Start up nation - the story of Israel economic miracle, Dan Senor và Saul Singer; bản tiếng Việt: Quốc gia khởi nghiệp - sự thần kỳ của nền kinh tế Israel, Trí Vương dịch, Alphabooks xuất bản tháng 5-2013.

Thứ Bảy, 25 tháng 5, 2013

5 tháng, chi 38,3 nghìn tỷ đồng để trả nợ và viện trợ

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/5/2013 ước tính đạt 268,4 nghìn tỷ đồng, bằng 32,9% dự toán năm, báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết.
 
Cụ thể, theo báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong tổng số thu trên thì thu nội địa là 178,2 nghìn tỷ đồng; thu từ dầu thô đạt 42,7 nghìn tỷ đồng; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 46,1 nghìn tỷ đồng.

Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 54,2 nghìn tỷ đồng; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 41,4 nghìn tỷ đồng; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 38,9 nghìn tỷ đồng; thu thuế thu nhập cá nhân 21 nghìn tỷ đồng;...
Cũng theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính từ đầu năm đến 15/5/2013, tổng chi ngân sách Nhà nước ước tính đạt 335,6 nghìn tỷ đồng, bằng 34,3% dự toán năm.

Trong đó, chi đầu tư phát triển đạt 62,1 nghìn tỷ đồng; chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi cải cách tiền lương) ước tính đạt 235,2 nghìn tỷ đồng; chi trả nợ và viện trợ 38,3 nghìn tỷ đồng.

Như vậy, bội chi ngân sách Nhà nước đến ngày 15/5/2013 là 67,2 nghìn tỷ đồng.

Theo  http://vneconomy.vn/201305250229377P0C6/5-thang-chi-383-nghin-ty-dong-de-tra-no-va-vien-tro.htm

Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2013

"Ba ngôi một thể"


Loại “ba ngôi một thể” dương tính
 “Chỉ có kẻ đọc sách mới biết được cái quý báu và hiểu biết, mới biết lích sử và pháp luật, cũng chỉ có hạng này mới biết dùng chữ đặt câu khéo léo trong đơn từ thưa kiện, chỉ một chữ là đủ giết người rồi. Bọn người đọc sách ở Trung Quốc cùng những nhân vật đồng loại, đã cấu tạo nên một giới gọi là thân hào, còn gọi là “bọn ủng rách”. Nếu ta lấy cây cối là ví dụ thì bọn này là ký sinh trùng; loại sâu này thường không tốn công sức gì mà leo đến ngọn cây cao nhất, tất cả mọi “cây si” ở Trung Quốc đều bị bọn ký sinh trùng này bao vây. Nói cách khác, bọn chúng có thể leo lên tới cây, ghé tai nói những câu hàm ơn hộ chất màu của đất đai, rồi lấy lợi. Quá hơn nữa, bọn chúng còn làm việc hút màu đất thay cho cây nữa. Tình trạng đó được gọi là lối “bao thuế” hay chuyên lợi. Lối này một mặt đã làm tan vỡ nền tảng kinh tế của nhân dân, một mặt xâm lấn làm hại thuế khóa của quốc gia. Sự độc quyền làm phân thu thu thuế là một nguồn lợi đẻ ra cơm áo gạo tiền của bọn thổ hào kỳ mục; tội ác này từ khi lập dân quốc đã được cảnh báo nhiều lần.

….Giống ký sinh trùng này, đã ăn sâu, bám chắc vào từng địa phương, bất cứ một chính quyền cai trị nào mới lên cũng phải nương tựa vào bọn nó, rồi cùng hợp tác hay chia việc giao cho chúng nó làm. Bọn chúng phân phối nhau “làm thịt” thuế khóa, lấy thuế mãi dâm, lấy thuế sòng bạc. Nhận xét việc đầu tư này của của bọn chúng dĩ nhiên là mong được đền đáp rất lớn. Điều mong ước được đền đáp rất lớn đó đủ để chứng minh nhân dân sẽ bị tệ hại thế nào. Bọn chúng tham nhũng không có hạn chế gì cả, bởi từ ngữ “rất lớn” không có phạm vi được xác định. Rồi bọn này lại dùng trí thức chuyên môn, hay nghĩ ra sắc thuế mới. Mỗi vi quan lớn khi đến nhậm chức ở một phủ huyện nào đó, trong nha môn của họ đều đã có sẵn kẻ liên hệ với bọn “thân hào” rồi. Rồi bọn đó nếu đã được diện kiến đại lão gia (quan lớn) một lần là về sau, không cứ có việc công hay không, bọn chúng cứ tự tiện vào nha môn để giữ cảm tình. Một lần nào đó chúng vào nha môn thăm hỏi sức khỏe đại lão gia, trong lúc được ngồi hầu uống trà nói chuyện cổ kim đây đó, bọn chùng thường thừa dịp rồi tắc lưỡi mà nói: “chà”! thưa cứ nghĩ, mỗi huyện ít nhất cũng có một vạn rưỡi máng nuôi heo, mười huyện có đến mười lăm vạn cái, giả thử mỗi cái máng chỉ đánh thuế một đông thôi, số tiền cũng đã lớn lắm”, nói đến chỗ cốt yếu lại tợp một hớp trà long Tĩnh. Trước những cám thán và những kiến thức được trình bày đó, đại lão gia đã dễ dàng học thêm được vài lối “lóc mỡ dân, thịt dân”. Vị lão gia này rất cảm kích và tự thẹn rằng mình không có được kiến thức đó. Rồi trên đường đời ông sẽ dần dần học được đủ ngón. Sau việc thu thuế máng nuôi heo, bọn văn nhân “thân hào” này lại nghĩ ra cách thu thuế quan tài, thu thuế kiệu hoa…
… Ở thành thị Trung quốc bao giờ cũng có tình trạng “ba ngôi một thể” dương tính là các viên tri huyện (tham quan ô lại) bọn thân hào (văn nhân tồi bại) bọn phú ông trong vùng (thổ hào) liên kết với nhau để làm việc.
… ngày nay ở các vùng quê lại nảy ra 4 loại thế lực liên kết với nhau, tức ngoài 3 loại đã nói ở trên còn có thêm một loại có thể gọi là “yêu ma” thâu nạp vào nữa”

 Loại “ba ngôi một thể” âm tính


"Bởi quan niệm bình đẳng có giai cấp và chủ nghĩa danh phận trong xã hội, nên một số quy luật về hành vi xã hội phát sinh ra. Nó là 3 định luật quan trọng không bao giờ thay đổi trong hệ thống tư tưởng kinh nghiệm của người Trung Quốc, tính chất bất biến của những định luật đó còn cố định hơn cả giáo điều của thiên chúa giáo ở La Mã, oai quyền còn lớn hơn hiến pháp của Liên bang Hợp chủng quốc ở Mỹ châu. Có thể coi ba định luật đó như ba nữ thần cai trị Trung quốc, oai quyền hơn cả tướng quân Tưởng Giới Thạch, hay Uông Tinh Vệ tiên sinh. Ba định luật đó là sự THỂ DIỆN, VẬN MỆNH và ƠN HUỆ . Ba chị em nữ thần thống trị Trung Quốc từ lâu và đến nay vẫn vậy. Chỉ có cuộc cách mạng nào phản kháng được ba nữ thần này mới kể là chân chính và đáng làm. Điều khó khăn này là ba nàng đều rất hiểu lòng người, mà cũng có tài làm người ta say mê nữa. Các nàng đã hủ hóa tăng lữ, nịnh hót giai cấp thông trị, bảo hộ cho quyền thế, lôi cuốn kẻ giàu có, thôi miên anh nhà nghèo, riêng cô em út thường có dã tâm làm ung thối các đoàn thể cách mạng. Các nàng lại có tài làm mê mẩn giới tư pháp, khiến mọi điều luật không còn hiệu lực gì nữa, mỉm cười khinh bỉ cái dân chủ, coi chơi mọi điều lệ, lấy quyền lợi nhân dân làm trò cười, phá hoại mọi luật lệ giao thông cùng chương trình câu lạc bộ, tùy ý dày xéo phá hoại vườn hoa riêng của mọi nhà. Nếu chúng là một ông vua chuyên chế, hay chúng xấu xa không ai ưa thì thế lực của chúng hẳn không bền vững được như vậy; trái lại thanh điệu của chúng rất êm đềm dễ nghe, dáng điệu rất khả ái, chúng bước lên chỗ pháp đình êm ái không tiếng động, ngón tay nhẹ nhàng làm đảo lộn cả cơ quan tư pháp, cùng lúc đó chúng xoa đầu, vuốt má các pháp quan. Thần êm ái biết bao nhiêu khi được sùng ái bọn tà thần ấy. Thế lực thông trị của chúng vì thế mà còn mãi mãi ở Trung Quốc, không dễ gì chốc lát mà tiêu diệt đươc".

Trích trong tác phẩm “Trung Hoa đất nước con người”
của bác sỹ Lâm Ngữ Đường (1938)





Thứ Tư, 22 tháng 5, 2013

Kỷ lục lạm phát của Việt Nam vượt các nước trong khu vực


 

 Tư Hoàng 
(TBKTSG Online) - Kỷ lục lạm phát của Việt Nam đã vượt qua tất cả các quốc gia trong khu vực kể từ khi đất nước tiến hành đổi mới đến nay, theo một nghiên cứu khoa học vừa công bố sáng nay (21-5).
Công trình nghiên cứu của tiến sĩ Đào Văn Hùng, Nguyễn Thạc Hoát và các đồng sự thuộc Học viện Chính sách và Phát triển phát hiện, trong tất cả các giai đoạn 5 năm suốt từ năm 1991 đến năm 2012, Việt Nam đã vượt qua tất cả các nước trong khu vực về một chỉ tiêu đáng buồn là lạm phát.
Công trình được đưa ra tại buổi hội thảo “Lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức cùng Học viện Chính sách và Phát triển và USAID cho biết, mức lạm phát của Việt Nam lên tới hơn 18% năm 2011 và 6,8% năm 2012, cao hơn nhiều so với mức trung bình khoảng 3% của các nước như Trung Quốc, Indonesia, Phillippines và Thái Lan.
Quốc gia có lạm phát cao nhất trong hai năm qua là Indonesia, song mức lạm phát của họ cũng chỉ 3,8-5% trong hai năm qua, thấp hơn nhiều so với của Việt Nam.
Tất cả các kỳ 5 năm được chọn để so sánh đều cho xu hướng như trên.
Nghiên cứu cho biết, trong 27 năm từ 1996-2012, Việt Nam có 13 năm và 4 giai đoạn lạm phát trên 2 con số, trong đó đáng kể nhất là từ 1986-1992 với mức lạm phát bình quân ba chứ số 225%/năm; 2007-2008 với 16,3% năm và 2010-1011 với 15%/năm.
Theo tiến sĩ Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển, kể cả so với Trung Quốc thì lạm phát của Việt Nam cao hơn, trong khi tăng trưởng lại thấp hơn.
Trong giai 2008-2012 tốc độ tăng trưởng của Việt Nam là gần 5,9% năm, và lạm phát là 12,6%; còn Trung Quốc tương ứng là 9,3%/năm và 3,3%/năm.
Trong 20 năm (1991-2010), Việt Nam tăng trưởng bình quân năm khoảng 7,4%, lạm phát gần 11%; thì Trung Quốc tương ứng là 10,5% và 4,8%.
Ông Hồ đặt câu hỏi: “Tại sao trong 20 năm qua họ tăng trưởng gấp đôi ta nhưng lạm phát bằng nửa ta?”.
Chỉ vào đồ thị về diễn biến của lạm phát 1992-2012 tại hội thảo sáng nay, ông Nguyễn Thạc Hoát nói: “Xu hướng biến thiên của đường lạm phát rất phức tạp, biến động mạnh, đỉnh nhọn, biên độ lớn. Điều đó cho thấy kiểm soát lạm phát ở Việt Nam chưa bền vững; sự bất ổn của tiền tệ và kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn lớn”.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Cao Viết Sinh bày tỏ lo ngại, mức lạm phát cao triền miên như vậy đang làm chi phí vốn và chi phí đầu tư kinh doanh ở Việt Nam cao hơn các quốc gia khác.
Ông Sinh cho rằng, các quốc gia khác cho vay lãi suất thấp vì rủi ro vĩ mô của họ thấp, còn Việt Nam thì ngược lại.
Tuy nhiên, thứ trưởng nhận xét, sau một thời gian dài áp dụng các chính sách kinh tế nhằm giảm lạm phát, đến lúc này, doanh nghiệp đã có tâm lý không muốn làm ăn, người dân không muốn mua sắm tiêu dùng nữa.
“Các doanh nghiệp với lãi suất cho vay hiện nay và đầu ra khó sẽ chỉ gửi vốn ngân hàng lấy lãi, hơn là đầu tư kinh doanh. Đây là xu hướng rất nguy”, ông nói.
Ông khẳng định, số lượng doanh nghiệp biến mất khỏi thị trường là điều rất đáng lo ngại, và đặt câu hỏi: “Liệu nền kinh tế có giữ được không với lãi suất vẫn cứ cao như thế này”.
Tuy nhiên, là một trong những tác giả chính của các đề án phát triển kinh tế của Chính phủ, ông Sinh tỏ ra lo lắng làm sao tìm ra nguồn vốn cho nền kinh tế sôi động lại, nhất là khi mục tiêu tăng trưởng tín dụng 12% cho năm nay (tương ứng với 360.000  tỉ đồng) không thể đạt được.
Tại hội thảo, các nhà kinh tế đề xuất mức lạm phát tối ưu khoảng 7-7,5%/năm trong giai đoạn 2013-2015.
Bên cạnh đó, họ kiến nghị cần có cơ quan phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ độc lập với Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính.

Tinh thần nghiệp dư và những biến dạng hôm nay




Vương Trí Nhàn
Tai nạn giao thông thường chỉ được nhắc tới trên báo chí khi xảy ra ở các trục đường lớn, người đi lại đông đúc, vụ việc ở mức độ nghiêm trọng, chắc chắn là có người chết.
Còn theo lời Liên, một cháu giúp việc làm với gia đình tôi thì ở quê nó mấy năm trước, tai nạn như cơm bữa, gãy chân sái tay là chuyện thường ngày, đi đâu chẳng nghe người kể.
Lại như nguyên nhân dẫn đến tai nạn.
Nông thôn đường có đông mấy vẫn là vắng so với thành thị. Mà nói tại người không có ý thức nghe cũng là chuyện xa xôi quá.
Khốn khổ, Liên bảo, cái chính là hồi ấy nhiều người có biết đi đâu, chỉ bảo nhau mấy câu là nhảy lên xe nổ máy, vừa gặp đám mấy con bò nghênh ngang vệ đường đã lúng túng không biết phanh hãm với lại về số thế nào.
Liều thế mà chỉ sứt đầu mẻ trán cũng còn phúc chán - ở tuổi mười tám, cái Liên cũng phải chép miệng như một bà già bảy mươi.
Liên nói về chuyện đi lại của những người quê nó. Nhưng tôi muốn nghĩ rộng ra những trường hợp khác, cả tới cách làm ăn của dân mình hiện nay.
Như chính những người như cháu Liên đây, từ nông thôn lên, có biết gì đâu về cách sống đô thị. Nước máy mở tràn. Nước rửa nước giặt có gì thừa đổ xuống toilet. Ra đường thì dắt dây hàng hai hàng ba như giữa đường làng, chạy đuổi nhau hét inh ỏi trên phố xá.
Thiếu gì người như Liên chưa hiểu gì về cuộc sống thành thị đã phải sống kiểu thành thị, tránh sao khỏi lố bịch.
Một việc lớn như buôn bán phục vụ bàn dân thiên hạ cũng nghiệp dư một cục. Dạy nhau theo lối truyền khẩu mấy câu, không qua huấn luyện, đã phải ra bán hàng. Bao nhiêu lầm lỡ hư hỏng thất thoát. Bao nhiêu dối trá làm liều. Và cả bao nhiêu chấn thương trong lòng người - tôi muốn nói tới chấn thương tinh thần - cái phơi bày ra, cái chỉ tự biết với mình, chỉ quên đi là không nổi.
Nói rộng ra, bước vào một cuộc chuyển đổi mà không được chuẩn bị, cả cộng đồng đang sống kiểu nghiệp dư như vậy.
Đối với tôi – cũng như phần lớn các bạn cùng lứa và nhiều bạn trẻ ngày nay, chỉ được học ở các trường đại học Việt nam – tên tuổi những Platon, Aristote thường chỉ tượng trưng cho những điều rắc rối trừu tượng và có nhiều phần vô bổ.
Nhưng mới đây có dịp đọc Platon qua Câu chuyện triết học của W. Durant bản dịch ở Sài Gòn cũ mới in lại, tôi bắt gặp ở cái ông triết gia thường bị gán cho cái tội tày trời là duy tâm này, bao chuyện cụ thể có liên quan đến cuộc sống hôm nay.
Đối với công bằng xã hội, ông bảo trước tiên không phải là phân phối bình quân mà là mỗi người nhận được đúng cái gì mình đã làm ra và làm công việc thích hợp với mình nhất.
Một người thợ mộc đi làm việc thợ xây, một công nhân hoặc nhà buôn lại đi đăng lính hoặc thành một người có quyền thì sẽ trở thành tai họa cho cả xã hội.
Một chỗ khác ông nêu cái ý rằng đối với việc nhỏ như việc đóng giày, làm bánh, người ta còn cần tìm những người thợ chuyên môn, tại sao trong lĩnh vực có quan hệ rộng lớn hơn, là quản lý xã hội – tức việc cai trị một cộng đồng một quốc gia – người ta tưởng ai cũng làm được.
Nghe đúng quá mà lại toàn là chuyện chúng ta không biết, không muốn biết và hơn thế nữa đang làm ngược.
Chúng tôi là lớp người được đào tạo từ chiến tranh.
Mà chiến tranh là gì? Là đi bất cứ đâu thực tế đang cần. Là cấp trên bảo sao làm vậy. Là không cần chuyên môn năng khiếu gì cả.
Phải nói thực là hồi ấy chúng tôi đã biết sẽ khó tìm được chỗ đứng trong xã hội tương lai. Thứ dao gì mà vừa chẻ củi được vừa chẻ rau được, thì chẻ rau cũng dở mà chẻ củi cũng gẫy luôn - lúc tỉnh táo, có người trong bọn, nhờ biết nhìn xa, đã tự nghĩ như vậy.
Nhưng học ở đâu bây giờ, có thầy đâu mà học, và nhìn quanh chả ai chịu học cả, thì mình cũng nản luôn.
Sau 30-4-1975 vào Sài Gòn ít ngày , tôi nghe một bà cô đằng nhà vợ bảo:
- Kỹ sư bác sĩ ngoài Bắc người nào cũng biết nấu cơm với lại trông con, việc nhà đến khéo, không như cái bọn tốt nghiệp đại học trong này.
Biết mới tiếp xúc nên bà chưa hiểu đây thôi, để cô đỡ thất vọng, tôi phải thú nhận ngay:
- Rồi cô xem, nay mai chúng con kỹ sư không thạo việc, bác sĩ không sạch nghề, và mang về rất ít lương, thì cô đừng có mắng đấy nhé.
Thoắt cái đã mấy chục năm, chúng tôi tỏa đi bao công việc, chia nhau nắm đủ mọi ngành nghề, không biết lạ cái gì, thì lẽ tự nhiên cũng không việc gì gây cho chúng tôi nỗi sợ.
Vốn dân đánh đồn diệt viện, học phổ thông qua loa, học đại học tại chức, học sau đại học theo kiểu nộp tiền cho thầy xin bằng, ấy vậy mà có người đang nắm những công ty lớn, mua bán tiêu pha bạc tỉ, chịu trách nhjệm về sinh mạng và cuộc sống cả hàng triệu dân.
Cờ đến tay ai người ấy phất, gặp việc gì cũng chỉ tự nhủ phải làm dấn tới, cố là được. Tôi nghiệp dư, anh nghiệp dư, nó cũng nghiệp dư nốt, chẳng phải những khi tỉnh táo, chúng ta vẫn nói với nhau thế sao?
Thì so với cánh dân nông thôn ra đô thị như cháu Liên nói ở trên có khác là mấy?
Từ góc độ của những người từ chiến tranh bước ra, cái tội không thạo việc thạo chuyên môn chỉ là chuyện nhỏ, đánh nhau khó bằng mấy còn làm được, nữa là quản lý kinh tế, cứ quyết tâm và có kỷ luật là hoàn thành tất.
Chẳng những hồi ấy mà cho đến hôm nay, vẫn có người nghĩ thế.
Lúc đầu là một sự tự động viên. Sau nữa là một kiểu cãi chày cãi bửa, che giấu cho việc thả lỏng mình làm bừa, sẵn sàng tranh giành địa vị và tham ô kiếm chác.
Nhớ có hồi có cả chủ trương phá rừng trồng sắn, nhắc lại mà vẫn nhói trong lòng.
Biết đâu lúc này cũng đang có những việc được làm một cách nghiệp dư tương tự, để rồi sang năm, sang năm nữa nhìn lại, cùng thấy nhói lòng tương tự?!
Nhưng còn tỉnh táo đã là may!
Lại không thiếu người, năm quyền một thời gian, quen thói ra lệnh. Mà lệnh vừa ban là cấp dưới sai đúng thế nào cũng răm rắp tuân theo. Thế là tưởng mình giỏi thật, khinh thường hết các chuyên gia.
Đối với các ông bạn thường hành xử theo kiểu này, có ngu mấy thì bọn tôi cũng không bao giờ dám nhắc nguồn gốc nghiệp dư của anh ta nữa. Chỉ đành nhủ thầm có phải riêng bạn mình đổ đốn thế này đâu, mấy chục năm nay cả nước quen nghề chinh chiến, có ai chịu học nghề, có ai làm ăn theo chuẩn theo mực.
Sự nghiệp dư hóa vẫn ngày ngày diễn ra trên diện rộng và có những biến dạng theo những chiều hướng kỳ cục .
Điều đáng sợ nhất của tình trạng nghiệp dư hóa hiện nay, là ở một số người, nó đã ăn vào thành một quan niệm chi phối cả tư tưởng lẫn hành động. Kiêu ngạo càn rỡ. Dương dương tự đắc.Tự thấy mình chúa tể thiên hạ. Khinh rẻ trí tuệ. Quy luật nào cũng bất chấp hết.
Một trong những truyện ngắn hay nhất của Nguyễn Công Hoan mang tên Người vợ lẽ bạn tôi. Truyện viết về Huệ, vợ lẽ của một người bạn tác giả là Quý. Lúc đầu, lấy Quý trong cảnh gượng gạo chót thì phải chét, thôi thì đành nhận vai vợ lẽ con thêm, Huệ tỏ ra rất nhút nhát. Nhưng lần lần Huệ thao túng người chồng nhu nhược, ghen ngược lên cả người vợ cả, và nắm quyền sinh quyền sát trong gia đình, đến mức nhân vật xưng tôi trong truyện cảm thấy thế là người bạn xưa nay không còn là chính anh ta nữa.
Cuối truyện nhân vật xưng tôi này đưa ra một khái quát:
– Tôi biết Quý không còn khi nào để có thể đi chơi với tôi. Vì cả đến cái tự do của anh cũng bị cô vợ lẽ chiếm nốt. Hẳn từ nay, tự nhiên hoàn toàn anh bị tước quyền làm chủ nhân ông.
Thì ra ở đời, mỗi khi nước nọ xâm chiếm nước kia, cuộc chinh phục về mặt kinh tế về mặt chính trị, cũng đi dần dần từng bước nguy hiểm như vậy.
Tôi đã thấy bao nhiêu ca thế rồi”.
Sự lấn lướt của thói nghiệp dư hôm nay và những biến dạng của nó, theo tôi, là rất đúng cái lô gích tiếm quyền và lên ngôi của người vợ lẽ bạn tôi mà Nguyễn Công Hoan đã mô tả.
V.T.N.

Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2013

Một tầng lớp trung lưu cho Việt Nam


“Chúng ta phải chú tâm vào lợi ích của những gia đình trung lưu để tạo một nền kinh tế ổn định. Như cha tôi, mỗi đêm Chúa Nhật, phải mất ngủ đi quanh nhà suy nghĩ tìm cách mưu sinh, trong khi con cái ông, nằm trong chăn ấm cúng, mơ về những giấc mộng lớn. Những gia đình không chắc là sáng Thứ Hai sẽ có được gì, nhưng luôn luôn tin rằng những ngày tốt đẹp của quốc gia đang đợi chờ trước mặt” (Charles Schumer)
 
Trong bài nói chuyện tại Café Thứ Bẩy hôm 6 tháng 4 năm 2013 cho khoảng 80 bậc trí giả ở Saigon, tôi đã mạo muội múa rìu qua mắt thợ và bầy tỏ quan điểm của tôi về đề tài khá bao quát,” Những điều kiện tiên quyết để tạo dựng một nền kinh tế vững mạnh”. Dĩ nhiên, tôi phải đón đầu đây là những tư duy rất sơ đẳng, hoàn toàn chủ quan từ góc nhìn cá nhân và đòi hỏi các khảo cứu sâu rộng cùng phản biện trí thức khác.
Theo tôi, 3 điều kiện đó là: (a) một thể chế chính trị hiện đại (b) một nền giáo dục tự do và thực tiễn và (c) một hệ thống tài chánh liên thông với thế giới. Nhưng trên hết là một tầng lớp trung lưu để nâng đỡ và nuôi dưỡng nền kinh tế này.
Tôi không được phép nói thêm về điều kiện chính trị và chỉ có thể bàn qua về nền giáo dục hay hệ thống tài chánh.
Môi trường giáo dục
Ai cũng biết người Việt là một trong những dân tộc hiếu học nhất. Bản chất thông minh, sinh viên Việt đã tạo những thành quả ấn tượng tại khắp các học đường trên thế giới. Các bậc phụ huynh cũng coi chuyện đầu tư vào giáo dục của con em là lựa chọn hàng đầu. Tại Việt Nam, có trên 20 triệu sinh viên học sinh, vài chục ngàn tiến sĩ và cả triệu cử nhân đã được đào tạo trong nước.
Tuy nhiên, sự đóng góp của giáo dục trong nền kinh tế gần như rất thấp vì khả năng của sinh viên ra trường thua kém chuẩn mực đòi hỏi của nghề nghiệp quá xa. Một thí dụ tôi hay kể là hãng Intel cần 120 chuyên viên trung cấp cho nhà máy ở Thủ Đức của họ. Trong số gần 2,000 ứng viên xin việc, họ chỉ nhận vài chục người, số còn lại phải nhập khẩu chuyên viên từ Mã Lai hay Philippines. Ngay cả những ngành học không cần cho ứng dụng kinh tế như khoa học nhân văn, tự nhiên, sư phạm… các sinh viên ra trường cũng thua xa các bạn đồng nghiệp tại Đông Nam Á.
Hệ thống đại học Mỹ được xem như là tối ưu trong các xếp hạng; dù các trường tại Âu châu có thể đã tồn tại lâu hơn. Lý do chính là chánh phủ Mỹ không bao giờ can thiệp vào giáo trình hay điều hành của bất cứ đại học nào,dù nhiều đại học công có nhận tài trợ từ ngân sách tiểu bang. Sự tự do này đem đến một sáng tạo rất đa chiều đa dạng.
Yếu tố giáo dục này đã đem một lợi thế cạnh tranh đáng kể cho nền kinh tế Mỹ; nhất là khi những sinh viên ngoại quốc của các trường đại học Mỹ quay về bản xứ để nắm các chức vụ quản lý quan trọng trong lãnh vực chánh phủ hay tư nhân. Tầm nhìn hay tư duy hay phương cách làm việc rất thích ứng với nền kinh tế toàn cầu do Mỹ đề xướng.
Hệ thống tài chánh
Vì đây là nền kinh tế toàn cầu nên cội rễ tài chánh (huyết mạch của hệ thống) phải có cùng một hệ điều hành. Một phần mềm cho IPhone không chạy trên các điện thoại Android hay ngược lại. Đó là lý do nền kinh tế Trung Quốc, mặc cho sự tăng trưởng ấn tượng và số lượng dân, vẫn tiềm tàng nhiều bất ổn, nhất là khi các siêu cường áp lực Trung Quốc phải để cho đồng nhân dân tệ (yuan) thả nổi và tự do hoán chuyển.
Ngày nào mà Việt Nam chưa dám cho tiền “VN đồng” hội nhập vào hệ thống tiền tệ thế giới thì chúng ta vẫn chỉ đá bóng trên sân nhà, với những quy luật riêng, không giống ai và không thể ra biển lớn để thi đua hay thu hút khán giả. Nền kinh tế sẽ bị giới hạn và luôn thu nhỏ, lệ thuộc vào nghị quyết của chánh phủ và những con cá mập tư bản nước ngoài có liên hệ chính trị với các quan chức và đại gia. GDP có thể tăng trưởng (dù không mấy ai ngoài cuộc tin vào các số liệu này) nhưng dòng tiền đầu tư chính thống (rất dồi dào trên thế giới) vẫn sẽ không đến với Việt Nam.
Thêm vào đó, để 3 diều kiện trên tồn tại và phát triển, chúng ta cần một tầng lớp trung lưu để nuôi dưỡng và bảo đảm sự vững mạnh cùng sáng tạo này của nền kinh tế.
Trung lưu là nền tảng
Dựa trên kinh nghiệm của Âu, Mỹ, Úc, Nhật, Hàn Quốc, Singapore…, tôi cho rằng tầng lớp trung lưu đã đóng góp rất tích cực vào sự phồn thịnh của các quốc gia này.
Trước hết, tầng lớp này là những “con kiến” cần cù xây dựng ngày đêm trong công việc được giao phó để tạo một phân khúc sản lượng cao nhất của GDP. Vì tạo được thu nhập lớn theo số đông, họ cũng là những người dân đóng thuế nhiều nhất cho ngân sách quốc gia. Sự đóng góp của họ còn thể hiện qua nhu cầu tiêu dùng, vốn tiết kiệm trong các ngân hàng, quỹ đầu tư và các hoạt động thiện ích ngoài xã hội.
Nhờ các hệ thống tín dụng dài và ngắn hạn, tầng lớp trung lưu tại các xứ này cũng là những người nắm giữ phần lớn tài sản…và do đó, phần lớn nợ nần liên quan. Trong định luật kinh tế, thành phần có nhiều thứ để mất là thành phần năng động và bảo thủ nhất. Vì tài sản, vì nợ nần, họ phải cật lực và sáng tạo để kiếm tiền, để giữ gìn tài sản cho gia đình và bảo vệ xã hội quốc gia khi gặp hiểm họa từ bên ngoài. Tầng lớp trung lưu thường bao gồm những người yêu nước nhất.
Dù thành phần trung lưu có nhiều tài sản và thu nhập nhất nhờ chiếm đa số dân, nhưng các tài sản và nợ nần này lại trải đều ra, tạo một thế cân bằng cho nền kinh tế. Cá nhân mỗi người không đủ giàu hay lớn để có ảnh hưởng gì đến thị trường; và trong việc đóng góp cho quốc gia, họ không đủ quyền lực hay kiến thức để tìm cách trốn thuế hay di chuyển tài sản ra nước ngòai.  Đó là lý do chính một nền kinh tế tạo dựng trên nền tảng “trung lưu” này sẽ vững bền và mạnh mẽ hơn. Nguyên lý này ông cha ta đã biết,” dân giàu nước mạnh”.
Quá khứ và tương lai
Trong lịch sử nước nhà, các lãnh đạo kinh tế của Việt Nam đã phạm hai lỗi lầm lớn trong quá khứ tạo nên hai cuộc khủng hoảng coi như “đại suy thoái” trầm trọng. Đầu tiên là chương trình cải cách ruộng đất theo mô hình Trung Quốc vào năm 1953 khi quốc gia còn là một nước nông nghiệp. Loại trừ phú nông ra khỏi nền kinh tế còn thô sơ để sở hữu hóa ruộng đất (cha chung không ai khóc) đã gây đói nghèo và thoái hóa tại nông thôn kéo dài nhiều thập kỷ.
Sau đó, chương trình “diệt tư sản” sau 1975 đã tàn phá thêm tầng lớp trung lưu đang là cột sống của nền kinh tế miền Nam vào giai đoạn đầu của phát triển. Suy thóai kéo dài hơn 20 năm sau đó là hệ quả của sự thiếu vắng một tầng lớp trung lưu trong xã hội. Hồi phục chỉ bắt đầu khi tư nhân được phép làm ăn, với sự góp vốn phần lớn từ các Việt Kiều và các nhà đầu tư ngoại. Hiện nay, một tầng lớp trung lưu đã manh nha hình thành; nhưng những chánh sách ưu tiên, dồn nguồn lực  cho các doanh nghiệp nhà nước có thể làm trì trệ thui chột sự tăng trưởng nhiều hứa hẹn này.
Giáo điều và chủ nghĩa thực ra là một thừa thãi trong việc phát triển nền kinh tế vững mạnh.   Đặng Tiểu Bình đã hiểu được chân lý về “mèo trắng mẻo đen hay mèo đỏ” sau 30 năm lỗi lầm của chánh phủ Trung Quốc.  Tuy nhiên, dồn chuột bắt được cho một nhóm lợi ích bằng ban phát quyền lực và quyền lợi trong một cuộc cạnh tranh không chính thống cũng sẽ tạo những bất ổn mà Tập Cận Bình đang phải đối phó. Như Acemoglu đã nhận xét trong cuốn “Why nations fail?’, miếng bánh kinh tế phải được san đều ra cho số đông, qua một sân chơi bằng phẳng với những trọng tài công minh.
Mọi can thiệp để lèo lái nền kinh tế theo chiều hướng tạo lợi ích cho một thiểu số người, không sớm thì muộn sẽ kết cuộc trong suy thoái và đổ vỡ cho đại đa số. Tầng lớp trung lưu đủ thông minh để nhận ra sự khác biệt giữa “bánh vẽ và thực tại” qua các hoạt dộng hàng ngày. Hãy cho họ cơ hội để họ có động lực chính đáng trong việc đóng góp vào sản lượng quốc gia.
Có phải Marx đã phán,” chúng ta không có gì để mất, ngoài những gông cùm…”?
Alan Phan

Đất Nước Cần Ta Ba Lô

Tôi không biết những gì sẽ chờ đợi ở cuối đường, nhưng tôi sẽ đến với nụ cười trên môi” Herman Melville (Moby-Dick)
Phải ra khỏi thiên đường
Trong những chuyến du hành liên lục địa, du khách người Úc chiếm số khá đông so với dân số khiêm tốn của xứ này, khoảng 23 triệu. Tôi tìm ra nguyên nhân khi qua Úc học hậu đại học vào năm 2002. Tại Tweed Heads và Coolangatta nơi trường Southern Cross tọa lạc, tôi tìm thấy một thiên đường tuyệt vời mà thiên nhiên đã ban phúc và con người đã trân trọng. Biển xanh trong ngây ngất, không khí không một hạt bụi, khí hậu ấm áp, cảnh quan và kiến trúc hài hòa, không nhiều chênh lệch giữa giàu nghèo dù mức sống cao, tốn kém. Tuy nhiên, mỗi tuần, tôi háo hức chờ đến Thứ Sáu để bay về Hồng Kông..vì thiên đường Úc buồn không thể tả.
 
Có lẽ vì vậy, người Úc nào, dù già trẻ lớn bé, nam nữ hay đồng tính, đều thích du lịch thế giới mỗi khi có dịp, hay tìm một việc làm, một cô vợ hay một tấm chồng…ở một nơi nào khác. Họ sẵn sàng ra biển lớn để tìm cảm giác lạ, kiến thức mở, kinh nghiệm mới cho cuộc sống hay sự nghiệp của mình. Với tư duy này, có thể nói người Úc có chỉ số IQ hay EQ hay AQ rất tốt.
Nếu so sánh, tôi nghĩ sự sáng tạo trong nền kinh tế IT của 23 triệu dân Úc chắc phải hơn những thành quả thu nhặt của 1.2 tỷ dân Trung Quốc. Chỉ nhìn sĩ số sinh viên Tàu tại các đại học Úc chúng ta có thể mường tượng một nghịch lý nào đó về “sự thông minh của đám đông”. Nếu người Tàu hãnh diện về 5 ngàn năm văn hóa, họ sẽ nghĩ thế nào khi nhận biết rằng 200 năm trước, những tổ tiên sáng lập ra nước Úc là những tên tội phạm nguy hiểm bị Anh đầy qua một hòn đảo ngoài thế giới nơi chỉ có rừng thiêng nước độc?
Sự việc cũng cho ta chút hy vọng là nếu những tên đầu trộm đuôi cướp này có thể tạo nên một thế giới văn minh cho con cháu; thì bầy vượn của những khu rừng khác trên thế giới cũng có thể vượt qua chính mình để có được những Planet of the Apes thần kỳ trong phim ảnh?
Bài học của các anh chị Tây Ba Lô
Quay lại Saigon, mỗi khi đi ngang khu Phạm Ngủ Lão, Đề Thám…tôi nhìn các anh chị Tây Ba Lô với nhiều thán phục và hoài niệm. Họ là hình ảnh của Alan thời 60’s, vai nặng ba lô đầy đồ đạc, quần áo rẻ tiền, túi không bao giờ có nhiều hơn 50 đô, lang thang trên mọi nẻo đường của Âu Châu, thường không biết hôm nay sẽ ăn gì và ngủ ở đâu. Luôn an ủi mình bằng câu “tùy cơ ứng biến” và “trời sinh Alan sẽ sinh ra bánh mì”.
Những cuộc phiêu lưu vô định… đôi khi ngu xuẩn này đương nhiên cũng gây nhiều ngạc nhiên khó chịu và bực bội…vì Murphy có câu thành ngữ là nếu có gì sai trái, nó sẽ hiện thực và luôn luôn là vào thời điểm bất ngờ nhất.  Tôi không quên lần tán tỉnh được 2 cô nàng ở Barcelona, nghĩ là tối nay sẽ có cuộc tình tay ba tuyệt diệu. Nào ngờ, nửa đêm, bị trói thúc ké trên chiếc ghế gỗ trong căn phòng khách sạn tồi tàn. Hai cô “người tình” lý tưởng thì đã biến mất với tiền bạc và quần áo của mình. Hay lần chiếc xe buýt cũ kỹ rơi xuống hố gần Qito (Ecuador). May mà chỉ bị thương nhẹ.
Nhưng những chuyến đi này là những kho tàng khi từ tương lai nhìn lại…chúng mở mang trí tuệ (một ngày đàng học một sàng khôn), chúng tăng lực tự tin cho tinh thần, và chúng giúp chúng ta có một tầm nhìn chính xác hơn về cái hư vô và nghiệp chướng của con người.
Tôi không biết là giữa những mảnh bằng đại học và những chuyến đi…cái nào đã thực sự đóng góp nhiều hơn trong quá trình làm người của mình.
Một đội ngũ…Ta Ba Lô
Trong cuộc hội thảo gần đây tại một trường đại học, tôi đã ngạc nhiên khi thấy quá ít sinh viên Việt có hộ chiếu và đã từng xuất ngoại. Tôi tin là hơn nửa số sinh viên có mặt hôm đó chắc có nhiều tiền hơn phần lớn các Tây Ba Lô tại Saigon. Điều họ thiếu sót lớn nhất là “ước muốn” và “can đảm”. Tiền tiêu cho những giờ chém gió và lảm nhảm tại các quán cà phê và các quán nhậu có thể nhiều hơn tiền tiêu mỗi ngày tại Thái Lan hay Myanmar. Vé máy bay đi nhiều nơi ở Asean rẻ hơn vé máy bay đi Hà Nội hay Đà Nẵng. Một chân làm bếp hay dọn dẹp trên một con tầu cho bạn một chuyến đi miễn phí qua Âu, Úc hay Mỹ. Phần lớn các bạn trẻ Việt ngày nay thông minh, sáng tạo và nếu biết tìm tòi trên mạng, sẽ tìm ra cả trăm cách thức để làm…Ta Ba Lô.
20 năm trước, tôi khó tìm ra một du khách từ Trung Quốc, Việt Nam hay Liên Xô. Hộ chiếu để xuất ngoại là một ân huệ và quyền lợi của các con ông cháu cha. Bây giờ, thì khắp thế giới, đâu cũng có dấu ấn của các công dân XHCN này. Tuy nhiên, phần lớn du khách thuộc hai loại: các tư bản đỏ với những tiêu xài hàng hiệu và khoe khoang thật “sốc” với dân địa phương và các ông bà già chắt chiu tiền tiết kiệm qua những tours rẻ tiền, bầy đàn, sợ sệt và thích phóng uế bừa bãi. Rất ít du khách là những…ta ba lô muốn đi tìm một kiến thức và kinh nghiệm về thế giới bên ngoài. Tôi chắc chắn là chúng hào hứng và quý giá hơn các lớp học Mác Lê buồn tè, nhìn qua lăng kính của những ông già gần đất xa trời.
Đòi hỏi của nền kinh tế kiến thức
Sự va chạm với thực tại, đôi khi khá đắng cay và tủi nhục, sẽ làm con người Việt trong bạn thức tỉnh: từ những bản lĩnh đáng tự hào đến những thói quen nhiều ngu muội. Tôi vẫn nghĩ cách duy nhất để thể hiện lòng yêu nước và đóng góp tích cực vào định mệnh tương lai của xã hội là thể hiện sự thăng hoa, tiến bộ hàng ngày của cá nhân mình. Chúng ta cần đổi mới, nhưng hãy đổi mới chính con người nội tại trước đã.
Hành trình dài cần những bước nhỏ đầu tiên. Hãy hứa với mình là sẽ đi xin một hộ chiếu ngày mai và suy nghĩ ra cách đi chơi Kampuchia hay Lào hay Thái Lan …trong tháng tới. Đơn giản thế thôi.
Hãy ra biển lớn…nhìn, nghe và suy nghĩ. Một lúc nào đó, mình sẽ biết làm gì với con người mới của mình…
Hãy nghe Eleanor Roosevelt thì thầm..” Mục tiêu của đời sống là hãy sống, hãy tận hưởng kinh nghiệm, hãy lên đường tìm những phiêu lưu mới, hăng hái và không sợ sệt”….
Alan Phan

Thứ Năm, 16 tháng 5, 2013

5 thủ đoạn khống chế xã hội của Mao



Trong thời đại Mao Trạch Đông, dân chúng không có quyền tự do ngôn luận, tự do theo đuổi nghề nghiệp, tự do cư trú và tự do đổi nơi cư trú. Điều mà người dân có thể làm chỉ là sự phục tùng. Bởi vì “kẻ không phục tùng không có cơm ăn”, ai không phục tùng thì phải “đói mà chết dần”. Tất cả bi kịch cũng như mọi chuyện hoang đường xuất hiện trong thời Cách mạng Văn hóa không phải là trách nhiệm và lỗi lầm  của nhân dân Trung Quốc (trong đó có giáo sư  Mao Vu Thức[2]). Tạp chí Minh Kính số tháng 8 đăng bài “Kỉ niệm một vị nữ thánh” của Ngô Giá Tường.[3]Trong bài  có nhắc đến chuyện kinh tế gia Mao Vu Thức phát biểu trong lễ kỉ niệm tròn 90 năm ngày sinh Vương Bối Anh[4]rằng “Bi kịch Cách mạng Văn hóa dù do lãnh tụ vĩ đại Mao Trạch Đông đích thân đạo diễn, cộng thêm nhóm tứ nhân bang cùng những kẻ tay sai trợ ác cùng lắm cũng chỉ mấy trăm người. Vậy mà cả nước sáu bảy trăm triệu người điên cuồng vào cuộc. Có một nửa trách nhiệm ở người dân. Nếu Mao Trạch Đông và lũ bốn tên sang Hoa Kì làm việc đó thì khẳng định là làm không nổi”.[5]Giáo sư Mao có dũng khí phản tỉnh như vậy thực đáng ca ngợi. Vậy mà người viết bài này quả thật không dám đồng ý với phát biểu cho rằng nhân dân phải gánh một nửa tránh nhiệm về bi kịch Cách mạng Văn hóa và nếu như là ở Mĩ thì không thể tiến hành được cuộc cách mạng đó. Chúng tôi cho rằng quan điểm đó có  vấn đề về logic rất đáng được trao đổi thêm.

“Kẻ không phục tùng không có cơm ăn”

Cách mạng Văn hóa sở dĩ có thể phát động và lôi cuốn dân chúng – việc này hoàn toàn có quan hệ với thể chế chính trị Trung Quốc. Dưới thời Mao, dân không chỉ mất quyền tự do ngôn luận. Đến quyền tự do chọn nghề nghiệp, tự do cư trú và di chuyển cũng chả có. Mỗi một người đều trở thành “chiếc đinh ốc” trong cỗ máy quốc gia. Còn nhà nước thì trở thành người chủ nhân công duy nhất, người kinh doanh của tất cả các xí nghiệp. L.Trotsky nói từ 1937: “Trong những nước mà nhà nước là người thuê nhân công duy nhất, phản kháng đồng nghĩa với việc “từ từ chết đói”. Nguyên tắc xưa cũ “kẻ không lao động không được ăn” đã bị thay thế bởi nguyên tắc mới “kẻ không phục tùng không được ăn”[6](sách “Đường đến nô dịch”). Trong một xã hội như thế, việc mà dân chúng có thể làm chỉ có thể là phục tùng và phục tùng. Bởi vì “kẻ không phục tùng không được ăn”, kẻ không phục tùng thì sẽ đối diện với uy hiếp của việc phải “từ từ chết đói”.
Ta hãy xem tình cảnh xã hội Trung Quốc thời Mao. Chính quyền mới được thành lập sau 1949. Trong thập niên những năm 50 hàng loạt các cuộc vận động chính trị và trấn áp phản cách mạng do Mao phát động đã tiêu diệt triệt để giai cấp trí thức thân hào trong xã hội Trung Quốc truyền thống. Những chức năng có tính truyền thống của xã hội Trung Quốc theo đó cũng tiêu vong. Trên một cơ  sở như thế Mao đã sử dụng năm thủ đoạn kể sau để khống chế chặt chẽ xã hội dưới tay  mình.

Thủ đoạn thứ nhất – Chế độ hộ khẩu

Chế độ hộ khẩu kiểu Trung Quốc phân tách thành thị và nông thôn. Nông dân suốt đời bị cầm cố ở nông thôn, các hộ dân quê không có cách nào để dời lên thành phố. Không có hộ khẩu thành phố thì không có chỗ làm, không có hộ khẩu thành phố thì không có phân phối lương thực, không có hộ khẩu thành phố không những không làm được bất cứ việc gì mà chính ra là không thể sinh tồn. Dân thành phố cũng bị cầm cố tại chính nơi cư trú của mình. Việc chuyển chỗ ở giữa các thành phố cũng vì chế độ hộ khẩu mà chịu sự khống chế hoàn toàn. Chế độ hộ khẩu đó dẫn đến vấn đề bất bình đẳng về mức sống, việc làm, đi học giữa nông thôn và thành phố. Vậy nhưng chỗ giống nhau về quyền lợi chính trị mà dân nông thôn và dân thành phố được hưởng đều là “không có gì”. Chế độ hộ khẩu Trung Quốc còn có một công năng khác, đó là thông qua hộ khẩu cưỡng chế những ai không phục tùng hay có kiến giải độc lập về nông thôn tiếp thu giáo dục lao động cải tạo. Sự khác biệt giữa thành phố và nông thôn kiểu như thế hoàn toàn là do con người tạo nên. Những ai có hiểu biết về thời kì lịch sử đó đều thấy rõ như thế.

Thủ đoạn thứ hai – Chế độ tem phiếu phân phối

Mao Trạch Đông dùng chế độ phân phối tem phiếu để nắm chặt trong tay mình nguồn nhu yếu phẩm phục vụ đời sống nhân sinh. Bất cứ một số lượng tiêu dùng nhu yếu phẩm nào cần thiết cho sinh hoạt đều được phân phối, người dân không thể tự do có được các nhu yếu phẩm đó. Khi mua lương thực không những cần có sổ mà còn cần cả tem phiếu, có tiền cũng không mua được định mức quy định theo tháng. Điều cần phải chỉ rõ là, phiếu lương thực còn chia thành loại phiếu thông dụng toàn quốc, loại phiếu dùng ở địa phương các tỉnh và loại phiếu dùng cho các thành phố. Trừ loại phiếu lương thực thông dụng toàn quốc ra, hai loại sau chỉ có thể dùng trong phạm vi các tỉnh các thành phố. Người ta không thể xoay trở được nếu như không có phiếu lương thực. Chỉ riêng với chế độ phiếu lương thực đã có thể khống chế được quyền tự do hành động của dân chúng. Nhưng chế độ phân phối của Mao gồm một nội dung hết sức rộng rãi. Tất cả đều được phân phối theo phiếu – có phiếu dầu ăn, phiếu vải, phiếu trứng, phiếu đường, phiếu thịt, phiếu máy khâu, phiếu xe đạp,… Đến tết có phiếu hàng tết. Đủ loại tem phiếu quán xuyến toàn bộ đời sống người dân Trung Quốc.

Thủ đoạn thứ ba – Chế độ hồ sơ lí lịch

Chế độ hồ sơ lí lịch không xa lạ đối với mỗi người dân Trung Quốc. Cho dù anh học ở trường, công tác ở các đơn vị cơ quan hay về hưu ở nhà (về hưu hồ sơ lí lịch được chuyển về khối phố hoặc công xã nơi đương sự sinh sống). Hồ sơ lí lịch theo liền với từng người cho đến hết đời. Chức năng của chế độ hồ sơ lí lịch không thua kém gì một sự theo dõi ngầm của cơ quan công an. Trường học và cơ quan sẽ ghi vào hồ sơ nếu đương sự bị kỉ luật. Những nhận xét hay giới thiệu mà chính đương sự không được đọc thấy hay không được chính đương sự xác nhận cũng được phê viết vào hồ sơ lí lịch. Tính cách tiêu cực hay tích cực của những lời phê đó ảnh hưởng đến đến cuộc sống giữa xã hội của chủ nhân bộ hồ sơ. Những ai có dũng cảm phàn nàn, nêu ý kiến hay phát ngôn trái lạ đều bị ghi vào trong hồ sơ lí lịch. Còn như việc sẽ chịu xử lí như thế nào thì chỉ còn trông chờ vào may rủi. Chế độ hồ sơ lí lịch phi nhân tính đó trên thực tế đã tước đi quyền tự do ngôn luận.

Thủ đoạn thứ tư – Chế độ giáo dục lao động cải tạo

Giáo dục lao động cải tạo được nói là một loại xử phạt hành chính nhưng trên thực tế rất gống với xử phạt hình sự. Chế độ giáo dục lao động có tính tùy tiện, nó có thể do một đơn vị cơ quan quyết định. Như thế chế độ giáo dục lao động khiến cho các cơ quan đơn vị trở nên rất gần với một cấp tư pháp nhưng tùy tiện và vô pháp luật. Mặc dù nói là  xử phạt hành chính và được gọi là “trị bệnh cứu người” nhưng những người bị bắt đi lao động không những mất quyền tự do nhân thân đồng thời họ cũng trở thành “tiện dân” của xã hội và chịu sự kì thị. Nghiêm trọng hơn là khi mãn hạn lao-giáo rồi người ta vẫn có thể cưỡng chế người bị giáo dục bằng lao động đó ở làm việc tại chỗ. Trên thực tế đó là một thứ tù không kì hạn, suốt đời bị giam thân cảnh tù, mất hẳn tự do. Việc có thể tùy ý thực hiện chế độ lao-giáo đối với dân chúng là biểu hiện của sự khủng bố chính trị thời Mao.

Thủ đoạn thứ năm – Chế độ cơ quan đơn vị

Dưới thời Mao, “cơ quan/đơn vị” trên thực tế chính là chỗ để khống chế cá nhân. Quyền tự do theo đuổi nghề nghiệp bị tước bỏ, tất cả mọi người đều nhận công tác theo sự sắp xếp của nhà nước. Người ta không có quyền chọn công việc và cũng không có quyền từ chối công việc được phân công. Nhà nước không cho phép tùy ý từ chức hay đổi công tác. Mỗi một người suốt đời làm việc ở những vị trí công tác đã được phân công. Tiền lương do nhà nước quy định. Tình trạng đi làm cả đời không có tăng lương là rất nổi bật. Một khi anh rời khỏi đơn vị hoặc bị đơn vị khai trừ đồng nghĩa với việc hoặc là anh đã ra khỏi cái xã hội mà Mao đang khống chế hoặc là anh bị cái xã hội đó khai trừ. Anh sẽ lâm cảnh đường cùng, mất hết nền tảng sinh hoạt. Trong cái chế độ cơ quan-đơn vị đó, để sinh tồn kiếm sống nuôi gia đình anh chỉ có thể phục tùng và phục tùng. Nhân dân Trung Quốc không có tội và cũng không có trách nhiệm về Cách mạng Văn hóa.
Thời đại Mao Trạch Đông chính là dùng những thủ đoạn như thế để khống chế toàn bộ xã hội Trung Quốc. Cộng thêm vào đó là hết cuộc vận động chính trị trị này đến cuộc vận động chính trị kia. Tất cả khiến cho nhân dân Trung Quốc thực không có lấy một cơ hội nào để thở lấy hơi nữa. Cách mạng Văn hóa trong suốt quá trình của nó xem ra rất là hỗn loạn nhưng cả xã hội vẫn được khống chế chặt trong tay Mao. Mà Cách mạng Văn hóa là một cuộc vận động chính trị nhằm giải quyết chuyện người thừa kế quyền lực. Nói cách khác Mao phát động Cách mạng văn hóa là nhằm mục đích biến giang sơn của một  đảng thành giang sơn của một nhà, chuẩn bị cho Giang Thanh tiếp nối quyền hành[7](Xem Lưu Thông, “Mục đích của Cách mạng Văn hóa – Xác lập người thừa kế quyền hành”). Trong Cách mạng Văn hóa, từ trên xuống dưới, từ trong đảng đến người ngoài đảng tất cả đều bị cuốn vào trong đó. Người bị cuốn vào không biết nguyên do sự việc nhưng kẻ phát động thì từng bước hướng cuộc vận động đi đến mục tiêu đã dự định trước. Nhiều lãnh đạo cấp cao bị cuốn vào mà không sao hiểu được nguyên do, họ lại còn đứng đó hô hào học tập. Họ cảm thấy chuyện dường như là “cách mạng gặp phải vấn đề mới”. Nhiều lãnh đạo bị lôi ra phê đấu bắt đầu công việc tự kiểm thảo đi kiểm thảo lại. Mao Trạch Đông bày đặt mê hồn trận, khiến cho đám đông những là “đối tượng của cách mạng” từ to đến nhỏ không biết phải như thế nào cho phải, suốt này hoảng hốt giữa rầm trời tiếng hô khẩu hiệu và tiếng hô đả đảo. Trong một không khí khủng bố chính trị như thế, quần chúng dân đen không chút quyền hành sống khác gì chết. Họ đến nói năng cũng phải giữ mồm, không cẩn thận là bị hàng xóm thậm chí chính vợ (chồng) con cái mình phản ánh, tố giác. Trong thời buổi Cách Văn hóa, ai cũng run sợ cho bản thân, ngay cả người thân cũng không được tin. Lúc bấy giờ, “tin tưởng” đã trở thành từ đồng nghĩa của từ “nguy hiểm”. Bạn bè tri âm trở thành người cáo giác, người dám nói thẳng chẳng khác gì đang đào huyệt cho mình. Cả nước từ trên xuống dưới chỉ mỗi Mao là người hưởng quyền “tự do ngôn luận” ghi trong hiến pháp. Mọi công dân của cộng hòa quốc này đều đã bị tước bỏ quyền phát ngôn. Mọi hành động đều chờ chỉ huy của Mao, vạn vật sinh trưởng cũng nhờ sự tưới tắm của “lời dạy của chủ tịch” (ngữ lục). Trong những năm tháng gọi là “cách mạng” đó, mở miệng là “muôn năm”, kiểm thảo ngày nào cũng có, tự sát trở thành ước mơ. Tất cả là để làm gì? Vận động quần chúng là để chặn đánh tâm lí phản nghịch của quần chúng. Vận động lãnh đạo cao cấp là để chống lại “lửa bất bình” nơi họ, làm cho họ cụp tai cúi đầu cam nô lệ. Mao gây bao án oan, bức đồng chí không ngừng tự kiểm thảo. Mao muốn tinh thần “tội tổ tông” thấm sâu vào thần dân. Chỉ như thế thì mới có thể khiến cho dự trù chính trị của mình thực hiện thông suốt.
Ham sống sợ chết là thiên tính của con người. Trong một xã hội mà không khí khủng bố nhuốm mùi tanh của máu, dân chúng xô dạt theo dòng lớn là chuyện không khó hiểu cả về tình lẫn về lí. Hẵng xem một người tài năng tót vời như Quách Mạt Nhược đã phải sống một cuộc sống run rẩy kinh hãi ra sao là đủ biết quần chúng thường dân vì sao lại phải “ngây cuồng”. Hẵng xem biết bao nhà văn nổi tiếng bỗng chốc tất cả cùng im lặng tập thể, gác bút tập thể là đủ thấy Mao Trạch Đông đã không chế thành công xã hội Trung Quốc đến mức nào. Cũng đủ để thấy dân chúng vì sao phải “ba phải a dua”. Bởi vì họ chỉ mỗi việc phải phục tùng, “ngây cuồng” hay “ba phải vào hùa” là kết quả của việc phải phục tùng. Không thế thì sẽ “dần dần chết đói”. Dám chắc giáo sư  Mao Vu Thức cũng ở trong đội ngũ đó. Đó quyết không phải là tội lỗi và trách nhiệm của nhân dân Trung Quốc (gồm cả giáo sư trong đó). Quả đúng như giáo sư đã nói: “Nếu Mao Trạch Đông và lũ bốn tên sang Hoa Kì làm Cách mạng Văn hóa thì khẳng định là làm không nổi”. Sở dĩ những việc tương tự Cách mạng Văn hóa không thể phát động nổi ở Mĩ là bởi vì chế độ chính trị quốc gia này không cho phép các nhà chính trị muốn làm gì thì làm. Điều còn quan trọng là, các nhân vật chính trị ở Mĩ là do dân chúng bỏ phiếu chọn ra. Tất cả những người đó (bao gồm cả tổng thống) đều phải chịu trách nhiệm trước dân chúng. Thế nên chính trị gia tại Mĩ không thể hành động khinh suất hay tùy ý trái phản ý dân. Ai cũng biết chính trị Trung Quốc thời Mao và chính trị Hoa Kì không giống nhau. Vậy đương nhiên là ngón nghề của Mao làm sao mà thi hành được ở Hoa Kì! Bản thân Mao cũng biết rõ điều đó. Sau lúc Liên Xô hạ bệ Stalin, chính Mao từng nói nếu như ở các nước phương Tây thì đã không có chuyện kiểu Stalin.[8]Thế nhưng Mao hoàn toàn không rút ra bài học gì cả. Sau vụ Watergate, Richard Nixon bị điều trần. Bill Clinton vì chuyện quan hệ ngoài hôn nhân mà bị quốc hội điều tra và ông đã buộc phải xin lỗi dân Mĩ. Ngược lại Mao chưa hề có một lời xin lỗi nào về những việc sai lầm của mình. Bành Đức Hoài[9]dũng cảm vì dân cuối cùng cũng chỉ là “Tôi không uống thuốc của Mao Trạch Đông” “Tôi không ăn cơm của Mao Trạch Đông”.[10]Một nguyên soái chiến công hiển hách cũng chỉ biết dùng cách đó để phản kháng thì còn yêu cầu được người dân phải làm thế nào? Một chế độ tốt đẹp có thể khiến một người xấu không dám làm việc hư, một chế độ bất lương có thể khiến người tốt làm việc xấu. Đây là lí do vì sao người ta yêu cầu phải cải cách thể chế. Giả sử, nếu xưa kia các bậc tiên hiền buổi đầu nước Mĩ kiến quốc không dựng nên chế độ dân chủ, nếu  G.Washington sau 8 năm làm tổng thống không sáng suốt và dứt khoát rút lui khỏi đời sống chính trị, nếu không có việc những người kế thừa Washington thể chế hóa hành động của ông, nếu Washington thực hiện triệt để chế độ chính trị kiểu Mao thì hoàn toàn có thể khẳng định – việc xuất hiện thảm cảnh Cách mạng Văn hóa hay việc nảy sinh bi kịch tương tự bi kịch của những Trương Chí Tân[11], Vương Bối Anh là hoàn toàn có thể.
Vì vậy, tất cả những bi kịch hay những chuyện hoang đường xuất hiện trong Cách mạng Văn hóa chỉ có thể là trách nhiệm của kẻ phát minh Mao Trạch Đông. Nếu không sẽ là không công bằng đối với lịch sử và cũng là một điều sỉ nhục đối với người dân Trung Quốc – những kẻ không có chút quyền kinh tế và quyền chính trị nào trong tay.

Lê Thời Tân dịch từ nguyên bản tiếng Trung.
Đã đăng trên Văn Hóa Nghệ An

……………………………………………

[1]Học giả Nhật gốc Hoa. Bài đăng trên 《明鏡月刊》nhan đề “文革”究竟誰之罪:與茅于軾先生商榷” (xin xem city.mirrorbooks.com).

[2]茅 于軾(Mao Yushi 1929-  ), nhà kinh tế học Trung Quốc đương đại. Năm 1958 bị quy “phái hữu” đình chỉ công tác. Trong Cách mạng Văn hóa bị khám nhà và đấu tố rồi bắt đi lao động. Nhận Giải thưởng kinh tế học Milton FriedmanLiberty Prize của Mĩ năm 2012.
[3]吳 稼祥(Wu Jiaxiang 1955 -  ), nhà nghiên cứu kinh tế học, từng thỉnh giảng tại Đại học Harvard. Sau sự kiện mùa xuân Thiên An Môn bị bắt giam. Mãn hạn tù năm 1992. Ngô là một trong những học giả đề xuất sớm nhất ý hướng cải cách xí nghiệp quốc doanh và thực hiện chế độ cổ phần ở Trung Quốc.
[4]王 佩英(Wang Peiying 1915-1970), nguyên là một nữ nhân viên ngành  đường sắt, do phản đối Mao Trạch Đông mà bị bắt vào viện chữa bệnh tâm thần. Trong Cách mạng Văn hóa bị gán tội phản cách mạng, nhét gạch vụn vào mồm và giong phố đấu tố. Sau đó bị phán quyết “lập tức tử hình”. Cuộc xử bắn ngày 27/1/1970 được truyền hình làm gương. Năm 1980 sửa án sai,  kết luận bị bệnh nhân tâm thần không nên kết án hình sự. Năm 2011 kết luận lại Vương vô tội và rút lại lời kết luận Vương mắc bệnh tâm thần.
[5]Xem Ngô Giá Tường, 《雖億萬人,吾往矣- 紀念一位聖女》đăng trên《明镜月刊》số tháng 8/2010 (kì 6), tr.78.
[6]Xem Vương Minh Nghị dịch, 《通向奴役之路》, Trung Quốc Xã hội Khoa học Xuất bản xã, 1997, tr.116 (The Road to Serfdom  của Friedrich August von Hayek có bản dịch tiếng ViệtĐường về nô lệcủa Phạm Nguyên Trường, Hà Nội, Nxb Tri thức –ND).

[7]Xem劉松,《文化大革命的目的-確立繼承人》introng日本大學大學院國際關係研究科《大學院論集》, kì 11, 2001, tr.61~85. Hoặc xem 關心dịch,《毛澤東最後的革命》, Thinker Publishing (HK) Limitedxuất bản, 2009, tr.328 (tức cuốn Mao’s Last Revolution của Mac Farquhar và Roderick – ND)

[8]Xem《鄧小平文選》, quyển 2, tr.333
[9]Bành Đức Hoài (1898-1974), nguyên soái, từng là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Chống lại chính sách Đại nhảy vọt của Mao từ Hội nghị Lư Sơn (1959). Bị quy tội phản đảng cách chức và kỉ luật. Trong Cách mạng Văn hóa bị đấu tố đánh đập rồi quy tội gián điệp. Bị thầm vấn hàng trăn lần. Mắc bệnh không được chạy chữa, chết ngày 29/11/1974. Trước lúc chết xin được gặp vợ đã li hôn đang lao động cải tạo ngoại ô Bắc Kinh nhưng bị vợ từ chối. Bình đựng tro cốt ghi thành họ tên khác. Được khôi phục danh dự năm 1978. Ghi chép trong tù xuất bản thành sách nhan đề “Bành Đức Hoài tự thuật” (ND).
[10]Xem 馬輅,佩璞,馬秦泉,《彭德懷廬山起禍》(Bành Đức Hoài – Tội khởi từ Hội nghị Lư Sơn), Nhã Lâm xuất bản xã, 1990, tr.36.
[11]Trương Chí Tân (1930-1975), đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc. Bị bắt tù từ 1969 cho đến 1975 vì dám phê phán sùng bái cá nhân và bệnh tả khuynh. Khác biệt giữa hai người phụ nữ Trương Chí Tân và Vương Bối Anh ở chỗ Trương trước sau không phủ nhận tư cách đảng viên của mình, trong lúc Vương sớm xin ra khỏi đảng. Trương trước lúc đem ra tử hình đã bị tra tấn đến phát điên nhưng vẫn bị cho là giả vờ trong lúc Vương khi đưa ra bắn bị xem là điên. Vương bị siết cổ khi đem ra pháp trường còn Trương bị cắt yết hầu trước khi xử tử. Năm 1978 Trương được khôi phục danh dự, năm 1979 công nhận liệt sĩ (ND).


Việt Nam phải chuẩn bị trước cho khủng hoảng

TS. Nguyễn Trí Hiếu nhận định, khủng hoảng sẽ đến với Việt Nam dù sớm hay muộn và đây là vấn đề không tránh khỏi được.

Trao đổi bên lề Hội nghị "Khuôn khổ ổn định và giám sát tài chính trong môi trường nhiều biến động" sáng ngày 28/11/2012, TS. Nguyễn Trí Hiếu nhận định, khủng hoảng sẽ đến với Việt Nam dù sớm hay muộn và đây là vấn đề không tránh khỏi được. Do đó, chúng ta phải chuẩn bị cho khủng hoảng.

Trong vấn đề xử lý khủng hoảng kinh tế - tài chính thì điều kiện tiên quyết là tất cả thông tin về quốc gia phải minh bạch, chính xác và đáng tin cậy. Có như vậy, các chính sách đưa ra trên là các dữ liệu và thông tin đó mới có cơ sở thực hiện.

Thứ hai, cũng cần thiết phải đi đến một mô hình về quản lý vĩ mô thống nhất. Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, Việt Nam đi theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn phải tham khảo các mô hình xung quang rồi có định hướng cho riêng mình chứ không thể theo một cái xác định chung chung

Thứ ba, một vấn đề quan trọng khác là phải quản lý rủi ro trên tầm mức quốc gia. Theo đó, cần phải có một nhóm chuyên gia, một ủy ban tập hợp các đại diện nhiều bộ ngành, định chế, doanh nghiệp, chuyên sâu nghiên cứu về khủng hoảng, chuẩn bị về khủng hoảng, đưa ra các quyết sách khi khủng hoảng xảy ra và xử lý khủng hoảng.

Ông kỳ vọng, sau hội nghị này Chính phủ, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và các bộ ngành, định chế tài chính sẽ phối hợp với nhau, dựa vào kinh nghiệm các quốc gia để đưa ra được một quyết sách riêng, phù hợp với bối cảnh Việt Nam trong vòng 6 tháng tới.

Ngoài ra, ông Hiếu cho biết ông hoàn toàn hoan nghênh ý kiến về việc cần có một cơ quan giám sát tập trung và ở tầm mức quốc gia, không thể để các đơn vị tự giám sát. Cơ quan này phải có quy chế rõ ràng có thể do Quốc hội phê chuẩn. Theo đó, được trao cho quyền lực đặc biệt, đầy đủ để thi hành các nhiệm vụ giám sát.

Thứ Ba, 14 tháng 5, 2013

Thế hệ tôi, một thế hệ cúi đầu



 Thế hệ tôi, một thế hệ cúi đầu
Cúi đầu trước tiền tài, cúi đầu sau mông người khác
Cúi đầu trước chính mình, cúi đầu bạc nhược
Chỉ ngầng đầu...
...vì...
...đôi lúc...
...phải cạo râu!

Thế hệ tôi, cơm áo gạo tiền níu thân sát đất
Cuộc sống bon chen
Tay trần níu chặt
Bàn chân trần không dám bước hiên ngang.

Thế hệ tôi, nhận quá nhiều những di sản hoang mang
Đâu là tự do, đâu là lý tưởng?
Đâu là vì mình, và đâu là vì nước
Những câu hỏi vĩ mô cứ luẩn quẩn loanh quanh...

Thế hệ tôi, ngày và đêm đảo lộn tanh bành
Đốt ngày vào đêm, và đốt đêm không ánh sáng
Nếu cho chúng tôi một nghìn ngày khác
Cũng chẳng để làm gì, có khác nhau đâu?

Thế hệ tôi, tự ái đâu đâu
Và tự hào vì những điều huyễn hoặc
Tự lừa dối mình, cũng như lừa người khác
Về những niềm tin chẳng chút thực chất nào!

Chúng tôi nghe và ngắm những siêu sao
Chỉ với mươi lăm nghìn cho vài ba tin nhắn
Văn hóa ngoại giao là trà chanh chém gió
Và nồi lẩu tinh thần là những chiếc I-phone

Thế hệ tôi, ba chục đã quá già
Và bốn chục, thế là đời chấm hết
Không ghế để ngồi, thì thôi, ngồi bệt
Mối lo hàng ngày là tiền trong tài khoản có tăng lên?

Thứ đắt nhất bây giờ là từng lạng NIỀM TIN
Thứ rẻ nhất, lại là LỜI HỨA
Sự dễ dãi đớn hèn khuyến mại đến từng khe cửa
Có ngại gì mà không phản bội nhau?

Không, tôi không đại diện thế hệ mình đâu!
Và thế hệ tôi cũng không đại diện cho điều gì sất!
Trăm năm sau, lịch sử sẽ ghi vài dòng vắn tắt:
Có một thế hệ buồn, đã nhạt nhẽo đi qua...
Gia Hiền
http://phairzios.blogspot.com/2012/06/he-toi-mot-he-cui-au.html


"Trăm năm sau, lịch sử sẽ ghi vài dòng vắn tắt:
Có một thế hệ buồn, đã nhạt nhẽo đi qua..."
...................................................................thật thế sao? Con cháu đọc lịch sử sẽ hỏi.

Làm thế nào để chuyển ngoại tệ ra nước ngoài?



Chuyển ngoại tệ ra nước ngoài rất đơn giản, chỉ cần đáp ứng một trong các mục đích sau:

- Chi phí học tập, chữa bệnh cho bản thân hoặc thân nhân.
- Thanh toán các khoản phí cho nước ngoài (phí chữa bệnh, phí hội viên, lệ phí các loại..).
- Trợ cấp cho thân nhân ở nước ngoài.
- Chuyển tiền thừa kế cho người thụ hưởng thừa kế ở nước ngoài.
- Công tác, du lịch, thăm thân nhân ở nước ngoài.
- Định cư ở nước ngoài

Kinh tế trong nước đã kiệt quệ sức mua từ lâu nên xu hướng chủ đạo hiện nay là mang tiền ra nước ngoài đầu tư hay gọi là Tẩu tán tài sản cũng được.

Chuyển ngoại tệ ra nước ngoài bằng những lý do trên có số lượng rất hữu hạn và đòi hỏi phải có chứng từ chứng minh. Trên thực tế, nhiều đại gia khoe khoang cơ ngơi ở nước ngoài là những căn biệt thự triệu đô ở những khu phố hạng sang bên Mỹ quốc. Họ không thể chuyển tiền theo lối kể trên.

Ở trong nước không thể gom đô tiền giấy để gửi ra nước ngoài được vì:
- Việc mua đô ở ngoài thị trường tự do là bất hợp pháp và mua đến hàng triệu đô thì chắc chắn sẽ bị cảnh sát kinh tế bắt quả tang
- Không thể gửi đô giấy ra nước ngoài bằng kiện hàng bưu phẩm hay xách tay vì vừa kém tin cậy lại vừa bất hợp pháp. Cách này nếu được thì cũng chỉ đạt được số lượng rất nhỏ.

Về danh nghĩa giao dịch ngoại tệ ngoài thị trường tự do bị cấm nhưng giao dịch vàng thì không, cá nhân có thể mua hàng tấn vàng một cách hợp lệ. Nhưng không thể mua đô la từ ngân hàng ngoài những mục đích được kể ra ở trên.

Mỗi năm, những người Việt định cư ở nước ngoài (VK) gửi về cho thân nhân trong nước (BN) để tiêu xài lên đến trên 10 tỷ đô. VK chỉ việc mang đô la tới Dịch vụ chuyển tiền tại Mỹ (DVM) một số tiền mặt và địa chỉ để uỷ thác cho dịch vụ gửi đến tận tay người thụ hưởng là thân nhân của họ (BN).

Ở một đường dây khác ở trong nước, Đại gia muốn chuyển tiền để đầu tư ra nước ngoài chỉ cần mua vàng từ các Tiệm vàng (TV) ở VN, giao vàng cho Dịch vụ chuyển tiền tại Việt Nam (DVV) uỷ thác giao đô cho thân nhân bên Mỹ (ĐT). DVV chỉ nhận vàng SJC.

DVV dùng vàng mua đô từ NHNN hoặc qua trung gian là TV. DVV giao tiền đô cho BN, DVM giao đô nhận từ VK cho ĐT.

BN không thể tiêu xài trong lãnh thổ VN bằng tiền đô mà phải bán đô lấy tiền Đồng. Bình quân thuế chiếm 30% doanh số bán lẻ. Thuế này lại không đến tay người dân, hay nói cách khác người dân không được hưởng gì từ thuế.

Các hoạt động giao dịch trên được khái quát qua sơ đồ sau:


Vàng "có giá" và không thể mất giá vì nó là phương tiện thanh toán thực sự thay thế cho đô. Giá vàng cao hơn giá thế giới thể hiện giá trị thật của đô la lâu nay không được tự do chuyển đổi và bị NHNN áp đặt tỷ giá. Cảnh báo để mọi người chớ có dại mà short vàng để kiếm lãi sau 30/6 với kỳ vọng giá vàng sẽ hạ.

Chú thích:
Từ nhiều năm nay, giá vàng trong nước cao hơn giá thế giới sau khi đã áp thuế khoảng 4-5 triệu đồng/lượng, cá biệt có lúc cao điểm lên đến 6-7 triệu đồng/lượng.

Lập luận được cho là "có tính thuyết phục" đó là các ngân hàng đã bán số vàng huy động được bằng  lãi suất 1-3% để lấy tiền cho vay với lãi suất có lúc lên đến 25%, bình quân là 20%. Theo đó cho dù giá vàng có tăng 10% khi mua lại để trả cho khách gửi vàng thì ngân hàng vẫn có lãi 7-9%. Các ngân hàng buộc phải mua lại vàng trên thị trường bằng mọi giá để kịp tất toán vàng vào thời điểm 30/6 tới. Cầu về vàng đã vượt quá số cung nên giá vàng SJC cao hơn giá thế giới. Theo quan điểm này, giá vàng trong nước sẽ "cân bằng" với giá thế giới sau ngày 30/6 tới đây.

Lập luận trên mới nghe thì thấy có lý đối với dân chúng không có vàng nhưng không có lý đối với giới ngân hàng. Vì cái gọi là "Tất toán vàng" không phải là hành động thực tế mà chỉ là khẩu hiệu để hô cho có khí thế cách mạng. Trước đó đã có 4 lần gia hạn tất toán vàng:

Ngày 30/6/2010
Ngày 31/7/2010
Ngày 30/6/2011
và ngày 30/6/2013 là thời hạn tất toán vàng lần thứ 4, không có gì bảo đảm đây là lần cuối.

 http://xacbacxangbang.blogspot.com/2013/05/lam-nao-e-chuyen-ngoai-te-ra-nuoc-ngoai.html

Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2013

Ngân hàng Nhà nước đang tự sát?

Đến nay, thay vì nhìn nhận sai lầm, Ngân Hàng Nhà Nước CSVN vẫn biện bạch chênh lệch giữa giá vàng nội địa với giá vàng thế giới là lợi cho cả nhà nước lẫn dân. (Hình: Lao Động)
Cung cách quản lý và điều hành thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước CSVN (NHNN CSVN) giống như hành động của một người muốn tự sát, đã thắt xong thòng lọng và đã tự tròng thòng lọng vào cổ.
Sự hỗn loạn của thị trường vàng và những tác động bất lợi của nó đến cục diện kinh tế, tiếp tục trở thành đề tài bàn luận cả trong dân chúng, báo giới lẫn chuyên gia kinh tế tại Việt Nam.
Người ta vẫn tiếp tục bất bình và thắc mắc không hiểu tại sao chính quyền CSVN lại cho phép NHNN CSVN độc quyền sản xuất – kinh doanh vàng (xuất – nhập cảng, chế tác vàng miếng, dùng nhiều biện pháp để loại trừ các thương hiệu đang hiện hữu, để trong tương lai, thị trường vàng trên toàn Việt Nam chỉ còn một thương hiệu là SJC).   
Mới đây, ông Nguyễn Vạn Phú, một cây bút chuyên bình luận về các vấn đề kinh tế, nhận định, NHNN CSVN làm những điều khó hiểu như thế nhằm sửa chữa một sai lầm từ chính sách được thực hiện hồi năm 2011.
Theo ông Phú, vào thời điểm đó, tuy đã cấm các ngân hàng huy động vàng, cho vay bằng vàng, song NHNN CSVN vẫn quyết định cho năm ngân hàng thương mại (ACB, Đông Á, Eximbank, Sacombank, Techcombank) và công ty SJC tham gia kế hoạch “bình ổn giá vàng”.
Năm ngân hàng này được bán 40% số vàng mà dân chúng gửi cho họ để thu tiền mặt. Vì khi ấy, giá vàng tại Việt Nam cao hơn giá vàng thế giới từ 1 triệu đến 1,5 triệu đồng/lượng nên cả năm ngân hàng trở thành những đối tượng được hưởng “đặc ân” (có quyền bán ra 40% số vàng hiện có với giá cao,  mua vào với số lượng tương ứng từ thị trường vàng trên thế giới vốn có giá thấp hơn để bù đắp 40% lượng vàng đã bán ra, hưởng toàn bộ khoản chênh lệch về giá).
Ông Phú tin rằng, khi có thể kiếm lợi dễ dàng và nhanh chóng như vậy, năm ngân hàng “may mắn” này, không chỉ bán 40% số vàng họ hiện có, mà còn nhận vàng từ các ngân hàng “kém may mắn” khác để tung vàng ra thị trường. Thành ra lãi suất huy động vàng của các ngân hàng đột ngột tăng đến 2% tới 3%.
Tổng số vàng đã bán ra trong đợt “bình ổn giá vàng” hồi năm 2011, được nhiều nguồn ước đoán chừng 25 tấn.Tuy nhiên 25 tấn vàng đó không khiến giá vàng giảm xuống vì chính sách của NHNN của chế độ Hà Nội tiếp tục thay đổi. Thay vì cho các ngân hàng thương mại từng được hưởng “đặc ân” tham gia kế hoạch “bình ổn giá vàng”, tự mua vàng từ thị trường vàng thế giới, Ngân Hàng Nhà Nước CSVN lại giành quyền làm điều này (mua 60 tấn với giá rất cao).
Bởi Ngân Hàng Nhà Nước CSVN không nhập vàng ngay, giá vàng trên thị trường thế giới đột ngột tăng. Cuối cùng, các ngân hàng thương mại từng được hưởng “đặc ân” tham gia kế hoạch “bình ổn giá vàng”, không những không được hưởng đồng nào mà còn lỗ nặng. Để có đủ vàng trả lại cho dân, các ngân hàng thương mại này phải mua từ Ngân Hàng Nhà Nước CSVN lượng vàng tương ứng số đã bán ra, với giá cao hơn gấp nhiều lần. ACB lỗ 1,800 tỷ. Đông Á lỗ 137 tỉ. Eximbank không cho biết con số cụ thể, chỉ loan báo lỗ vài trăm tỉ… 
Ông Phú giải thích, sở dĩ giá vàng tại Việt Nam vẫn không giảm dù Ngân Hàng Nhà Nước CSVN đã bán ra 15 tấn vàng vì các ngân hàng thương mại giành mua hết để có vàng trả lại cho dân.
 
Mới đây, khi dự một cuộc hội thảo với Đoàn Đại biểu Quốc hội của Sài Gòn, ông Phạm Đỗ Chí, từng là chuyên gia cao cấp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, có nhiều nhận định tương tự ý kiến của ông Nguyễn Vạn Phú.
Ông Chí cho rằng, Ngân Hàng Nhà Nước CSVN đã “tự đưa mình vào thế kẹt”.
Theo ông Chí, chỉ có ba giải pháp để Ngân Hàng Nhà Nước CSVN lựa chọn, song giải pháp nào cũng là hạ sách: (1) Ngưng đấu giá vàng. Nếu ngưng thì thị trường sẽ hỗn loạn và giá vàng nội địa tiếp tục tăng mạnh. (2) Tiếp tục đem nguồn vàng dự trữ thay cho ngoại hối ra bán thì nguồn dự trữ này sẽ cạn, chưa kể nếu giá vàng trên thị trường thế giới xuống dưới mức 1.400 USD/ounce thì Ngân Hàng Nhà Nước CSVN sẽ lỗ nặng do trước đây đã mua với giá cao. (3) Nếu quyết định nhập thêm vàng để bán thì lượng ngoại hối dự trữ sẽ suy giảm.
Ông Chí nói thêm rằng, ở cương vị chuyên gia cao cấp cho Qũy Tiền tệ Thế giới, ông đã từng làm việc tại 30 quớc gia và làm cố vấn cho 20 ngân hàng quốc gia nhưng “chưa bao giờ tôi thấy ngân hàng quốc gia nào dám tự nhận vai trò quản lý vàng và đầu cơ vàng nguy hiểm như vậy!”.
Những sai lầm trong quản lý và điều hành thị trường vàng của NHNN CSVN không chỉ khiến thị trường vàng tại Việt Nam hỗn loạn. Ông Nguyễn Vạn Phú khẳng định rằng, theo sau những sai lầm đó, đồng Việt Nam đã thiếu càng thiếu hơn, rủi ro gia tăng vì xuất siêu chưa vững mà dự trữ ngoại hối lại giảm và thay vì tìm cách huy động vàng trong dân thì cách làm,  lại khiến dân gom vàng về cất.
 (Người Việt)

Thứ Năm, 9 tháng 5, 2013

Từ phục hưng, khai sáng tới hiện đại

Trong văn hóa xã hội, tất cả các quốc gia đều phải trải qua các giai đoạn phát triển theo thứ tự, trong đó tại Âu châu trải qua các thời kỳ: 
1. Thời Huyền sử, trước thế kỷ 8 trước Công nguyên.
2. Thời Cổ đại, từ thế kỷ 8 trước Công nguyên đến thế kỷ 5 sau Công nguyên.
3. Thời Trung cổ từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 15.
4. Thời Phục hưng từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 16.
5. Thời Cải cách từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 17.
6. Thời Khai sáng từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 18.
7. Thời Cách mạng công nghiệp từ thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20.
8. Thời Hiện đại từ đầu thế kỷ 20 đến hiện nay.
Để ra khỏi Thời Trung cổ, Châu  đã phải qua nhiều thời kỳ, mỗi thời kỳ nhiều trăm năm. Bắt đầu từ những le lói ánh sáng văn hóa, văn minh của Thời đại Nhân Văn, Chủ nghĩa Nhân Văn (Humanism) phát xuất từ bên Ý, do Francesco Petrarca (1304-1374)  đề xướng. giữa thế kỷ 14 rồi đến khoảng đầu thế kỷ 15 từ Florence bên Ý với sự góp sức của một số nhà Nhân văn học như Saint Thomas Aquinas, Giotto di Bondone, Francesco Petrarca, Leonardo Bruni, Manuel Chrysoloras, Desiderius Erasmus, Filippo Brunelleschi, Lorenzo Valla, Poggio Bracciolini, một số nghệ thuật gia mới tạo thành phong trào bi quan ca thán cho hiện tại vào lúc đó, và hồi tưởng lại dĩ vãng oai hùng của nước Ý cách đó gần một ngàn năm, và văn minh Hy lạp cách đó hơn một ngàn năm trăm năm.   

Từ đó họ tạo thành Phong trào Phục hưng kéo dài 200 năm từ thế kỷ 15 sang thế kỷ 16, với sự trỗi dậy mạnh mẻ, bừng tỉnh, của các phong trào nhân văn, xã hội, nghệ thuật, khoa học, triết học, chẳng những tại quốc gia họ mà còn lan ra toàn Âu châu. Nhân dân Âu châu sau thời gian ngủ yên một ngàn năm trong Thời Trung cổ bổng trở mình, phát triển mạnh mẽ trong nhiều lãnh vực như kiến trúc, văn học, âm nhạc, hội họa, triết học, khoa học, kỹ thuật, vũ khí. Đây là thời kỳ cực thịnh của châu Âu, dọn đường cho Thời Khai sáng sau này.  


Thời Khai sáng chính là quá trình bứt phá khỏi quá khứ với quyền lực cai trị của giới địa chủ, lãnh chúa, chức sắc tôn giáo như Thời Phục hưng trở về trước sang một thế giới quyền lực cai trị vào tay những ai có khả năng nhất, bao gồm các triết gia hoặc học trò của họ. Đây cũng là thời đại các quốc gia hùng mạnh được hình thành như Pháp, Anh, Ý, Đức, Tây Ban Nha ngày nay. Chen giữa Thời Phục hưng và Khai sáng là Thời Cải cách chủ yếu tranh đấu bình đẳng trong tôn giáo. 
Nhìn lại quá trình phát triển từ thời Trung cổ đến thời kỳ Khai sáng để bước vào thời kỳ Cách mạng công nghiệp rồi sau đó là thời Hiện đại từ thế kỷ 20 đến nay ở châu Âu kéo dài suốt hơn 600 năm với các nhân vật khởi xướng Thời đại Nhân Văn  là Francesco Petrarca, kế tiếp đến Cải cách, cách mạng công nghệ và người khởi xướng phong trào Khai sáng là René Descartes đều không từng là các chính trị gia. Họ là những nhà nhân văn, khoa học, công nghệ, hoạt động của họ nhằm khai sáng, mở mang đầu óc, trí tuệ người dân, chứ không nhằm quản trị dân, quản trị quốc gia.