Phạm Đỗ Chí
Chưa năm
nào có nhiều hội thảo và tranh luận sôi nổi về hiện trạng nền kinh
tế như năm nay. Các giới chức và chuyên gia trong chính phủ thì cho
là kinh tế Việt Nam đã ổn định khá và đang phục hồi. Vài đại biểu và
chuyên gia Quốc Hội thì nhìn thấy “màu xám”, còn vài chuyên gia
ngoài chính phủ hay nhiều nhóm dân cư lại vẫn thấy “màu tối”, theo
báo chí. Chuyện gì đang xảy ra?
Một nhận định
của nhiều người trong kỳ hội thảo mùa thu về Kinh tế[1]
mới đây là nền kinh tế đang rất xấu với nguy cơ “vỡ trận tài chính”
trong năm 2014 và triển vọng trung hạn 2013-15 cũng không mấy sáng
sủa vì việc tái cấu trúc kinh tế chưa được triển khai hiệu quả bằng
hành động. Riêng trong phát biểu mở đầu, TS Trần Đình Thiên gọi kinh
tế VN vẫn đang mò đáy, chứ chưa thoát đáy như vài nhà kinh tế khác
lạc quan hơn đã nhận định mới đây.
Thêm một
chuyên gia độc lập nhận xét là tình trạng sản xuất trong nền kinh tế
VN gần như tê liệt vì các doanh nghiệp thi nhau phá sản hay đóng cửa
từ 2011, tăng trưởng GDP có thể trì trệ hơn và nạn thất nghiệp gia
tăng mạnh hơn các con số chính thức, gây ra các tệ nạn xã hội báo
động. Trong khi chính sách tín dụng trong cả nước cũng hoàn toàn
nghẽn mạch—một phần vì doanh nghiệp không đủ sức hấp thụ và vì ngân
hàng không muốn cho vay (với thanh khoản yếu do nợ xấu gây ra).
Nói chung,
hoạch định chính sách kinh tế có thể khó khăn hơn nếu không được dựa
trên dữ kiện rõ ràng hay chính xác (economic planning without
facts), như nhà kinh tế nổi tiếng Kornai đã từng cảnh cáo cho nền
kinh tế Hung ga ri thời còn bao cấp.
Bài trình bầy
của nhóm nghiên cứu Chương trình Giảng dạy Fulbright ở Saigon qua
Giám đốc Nguyễn Xuân Thành[2],
phân tích trong 4 động cơ liên quan đến tăng trưởng thì 3 “động cơ
nội” trục trặc, chỉ có một động cơ “ngoại” là khu vực có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) đang chạy tốt, và nhận định quan trọng là
3 động cơ nội trục trặc là do bị ảnh hưởng của thể chế kinh tế (khu
vực quốc doanh làm chủ đạo), động cơ ngoại chạy tốt do không bị ảnh
hưởng hoăc bị ảnh hưởng rất ít của thể chế trong nước. Tỷ trọng giá
trị gia tăng của khu vực FDI trong GDP là 13% năm 2000, đến năm 2012
tỷ lệ này tăng khoảng 7 điểm phần trăm lên xấp xỉ 20%; lượng tiền
chi trả sở hữu thuần ra nước ngoài (chi trả sở hữu – thu từ sở hữu)
của năm 2012 tăng khoảng 25 lần so với năm 2000 và nếu loại trừ yếu
tố giá thì tỷ lệ này cũng tăng xấp xỉ 9 lần.
Điều này làm
nổi bật một điều là do đóng góp đáng kể của FDI vào tăng trưởng GDP,
thu nhập quốc gia gộp (GNI—gross national income) không tăng nhanh
theo cùng mức với GDP, và thu nhập lẫn tiêu thụ nội địa đều yếu dẫn
đến mức tổng cầu yếu đã được ghi nhận từ ba năm qua. Từ những lập
luân trên phải chăng càng tăng trưởng GDP theo kiểu này thì luồng
tiền và của cải của đất nước càng sụt giảm, trong khi FDI càng thu
lợi nhờ nhân công và thuê đất rẻ lại tránh được thuế (xem dưới đây)?
Mặt khác, khi
đã xác định được sự đình trệ của khu vực sản xuất trong nước phần
lớn là do thể chế thì các nhà họach định chính sách có thể cải thiện
thể chế để phục hồi cơ cấu sản xuất và cả nền kinh tế. Việc cải
thiện thể chế không chỉ đơn giản là cải cách hành chính hay chống
tham nhũng như một số giới kêu gọi, hay là giãn giảm thuế thu nhập
doanh nghiệp, mà chính là thiết lập thật sự sân chơi bằng
phẳng, minh bạch đối với khu vưc tư nhân và nông nghiệp. Đây
chính là nền tảng thiết yếu của chính sách tái cơ cấu kinh tế đang
muốn thực hiện bởi chính phủ. Vì nến tảng chưa được thiết lập,
việc áp dụng mới bị bế tắc!
Điều này không
tốn kém nhưng cũng rất khó khăn vì phải tái cơ cấu tư duy của các
nhà lãnh đạo và điều hành kinh tế! Việc đạt được thành tích tăng
trưởng cao ngắn hạn mỗi năm thực sự không quan trọng bằng việc phục
hồi 3 động cơ “nội”, theo cách phân tích nói trên của nhóm
Fulbright.
Từ nghiên cứu
quan trọng của nhóm này, chúng ta cũng có thể suy nghĩ thêm về những
mảng sáng tối, và những lý do đàng sau, của bức tranh kinh tế Việt
nam khá phức tạp năm nay với các diễn đạt khác biệt từ những góc
nhìn khác nhau.
Cả nền kinh tế
nói chung vẫn trong tình trạng tương đối trì trệ của 2 năm trước với
mức GDP thực tế chỉ tăng quanh 5% (con số chính thức được coi là lạc
quan!). Nhưng phần lớn tăng trưởng được ghi nhận là do nhóm sản
xuất FDI . Và đó cũng là lý do cho điểm sáng hiếm hoi của
xuất khẩu vẫn tăng khá năm nay. Nhưng với các kỹ thuật
chuyển giá để khai lỗ của nhóm doanh nghiệp FDI, đóng góp vào
thuế doanh nghiệp của khu vực này gần như rất ít, trong khi các
doanh nghiệp tư nhân ngoài FDI và nhà nước thua lỗ nên không
thể đóng thuế: thêm một lý do cho thất thu thuế năm
nay, ngoài chuyện trì trệ sản xuất.
Ngoài ra do
tình trạng suy yếu của sản xuất nói chung, mức nhập siêu 10-12 tỷ
USD của các năm trước 2011 đang trở thành xuất siêu, giúp cho cán
cân vãng lai và thanh toán tổng thể được thặng dư, và là lý do căn
bản làm bớt được áp lực tỷ giá.
Áp lực lên tỷ
giá cũng bớt đi do chuyên độc quyền vàng miếng SJC làm bớt nhu cầu
nhập lậu vàng. Trong khi NHNN có thể hân hoan với kết
quả này, câu hỏi bất cập khác xuất hiện là khối vàng trên 60 tấn do
NHNN độc quyền bán ra đã đi đâu? Khoảng 30 tấn được giải thích là
cho nhu cầu tất toán của hệ thống ngân hàng trong năm, nhưng
còn hơn 30 tấn vàng kia đi đâu? Báo chí xuất hiện thêm loạt
bài nói là “tham nhũng ưa chuộng vàng miếng”, làm dấy lên mối lo
ngại trước đây về các kênh tẩu thoát của vàng không được mong muốn,
một câu hỏi nhức nhối khó trả lời và cần thời gian.
Chuyện bán ra
khối vàng quan trọng cùng với việc phát hành 170.000 tỳ đồng trái
phiếu chính phủ cũng được coi là hai biện pháp giúp rút bớt khối
tiền đồng lưu hành để tránh áp lực lạm phát do việc NHNN mua vào
thành công khối dự trữ ngoại hối tăng đến mức kỷ lục 28 tỷ USD, so
với sự thất bại năm 2007 do thiếu biện pháp này để trung hòa khối
tiền đồng tung ra để mua khoảng 10 tỷ USD do FDI và đầu tư gián tiếp
FII mang đến. Câu hỏi đặt ra là tiền lớn đều chui vào vàng và
chi tiêu chính phủ, còn đâu “room” cho đầu tư của tư nhân khi bị khu
vực chi tiêu chính phủ chèn ép?
Sau hết, sản
xuất trì trệ nói chung trên đây cũng gây trở ngại cho mức tổng cầu
và hấp thụ tín dụng của nền kinh tế. Do đó, tín dụng mới tăng hơn
6% cuối tháng 10 và cả năm khó đạt mục tiêu tăng 12%, và là nguyên
nhân chính giúp giảm áp lực lạm phát.
Về nhu cầu
chính sách tương lai trong ngắn hạn, có 2 luồng ý kiến:
thứ nhất là kích cầu từ đầu tư công qua nới rộng mức độ bội chi
ngân sách và thứ hai là “kiên trì” ổn định kinh tế vĩ mô.
Việc “kích cầu”, qua đầu tư công thiếu hiệu quả, có thể nhất thời
làm tăng GDP nhưng không bền vững và chỉ nhằm mục đích “thành tích”
ngắn hạn, và một vòng xoáy lạm phát – suy trầm bị e ngại sẽ lại tiếp
diễn trong năm 2014 như đã xảy ra các năm trước đây. Hơn nữa trong
lúc các tỉnh thành lớn đều hụt thu nội địa thì việc nâng trần bội
chi ngân sách quốc gia (lên 5,3% cho năm nay và năm tới) để dáp ứng
việc giải quyết tăng GDP ngắn hạn là một việc không nên làm trong
lúc này.
Điều
gây bức xúc nhất vẫn là chính sách trung hạn:
tiếp tục in trái phiếu khoảng 150.000-200.000 tỷ mỗi năm như lối ra
cho chính sách tài khóa theo dự kiến hiện tại quả là không ổn cho
bức tranh lạm phát và tổng thể. Và không giải quyết được nghẽn mạch
tín dụng bằng việc tiếp tục vô thời hạn các biện pháp hành chính
hiện nay trong chính sách tiền tệ, thay vì các biện pháp thị trường,
do chính NHNN đã khổ công xây dựng trong nhiều năm trước đây mà kinh
tế đất nước cũng đã rất quen thuộc-- mới là chuyện quan trọng: liệu
có thể để các doanh nghiệp tiếp tục dẫy chết và guồng máy sản xuất
suy đốn thêm?
Nhìn chung,
búc tranh kinh tế 2013 có những điểm sáng như xuất khẩu tăng, tỷ giá
ổn định, lạm phát giảm dần, được một số nhà kinh tế quen thuộc trong
nước ngợi khen, nhưng nghĩ kỹ đều phản ánh những tia sáng le lói khó
bền vững, vì chỉ đi ra từ sự kiệt quệ của nền kinh tế tư nhân với
hàng chục ngàn doanh nghiệp đóng cửa hay lỗ nặng hàng tháng. Cạn
nguồn thuế, ngân sách không thể kéo dài chuyện in tiền qua phát hành
trái phiếu của chính phủ hay của các doanh nghiệp nhà nước được bảo
lãnh. Đây không thể là tình trạng kéo dài thêm được lâu nữa.
Trong phần tóm
tắt kết luận hội thảo, một nhân vật hữu trách quan trọng khẳng định
là nền kinh tế không hề tê liệt để trả lời thẳng vào
nhận xét chuyên gia trên đây, nhưng lại cũng hoàn toàn im lặng về
các đề xuất thay đổi thể chế như nêu trên. Thay vào đó, vị này nhấn
mạnh về yếu tố phục hồi tăng trưởng cho năm tới, và nêu nhận xét là
các chuyên gia đã rõ ràng và đồng thuận trong phần nhận định hiện
trạng, nhưng chưa đưa ra được các giải pháp chính sách phục hồi kinh
tế cụ thể. Và hình như đó là bế tắc của khóa hội thảo mùa thu, cũng
như của nền kinh tế suốt bốn mùa!
Trước bế tắc
đó, phải chăng cần nghĩ đến giải pháp “cuối cùng” như chuyên gia Võ
Đại Lược vừa đề nghị với Ủy ban Kinh tế Trung ương là mời IMF trở
lại để trợ giúp cả kỹ thuật lẫn tài chính? Kỹ thuật vì họ có cái
nhìn khách quan vượt trên được các nhóm lợi ích và có thể giúp tái
lập bức tranh tổng thể với số liệu chính xác. Tài chính vì nhu cầu
vốn để xóa món nợ xấu ngân hàng cũng như giảm khối nợ công quốc gia
khổng lồ (ước tính vượt 100% GDP, gồm cả nợ của các doanh nghiệp nhà
nước do chính phủ bảo lãnh) có thể lên đến 40-50 tỷ USD, con số ít
ai dám nghĩ đến, nhưng là số dựa vào kinh nghiệm trợ giúp của IMF
cho Thái lan và Nam dương.
[1] Do Ủy ban Kinh tế
Quốc Hội tổ chức ở Huế vào hai ngày
26-27/9/2013.
[2]
Tóm
tắt của TS Bùi Trinh trong một bài viết ngắn chưa xuất bản.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét